Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Nhu cầu khách hàng qua việc Marketing

Khi bạn hiểu được các động cơ cảm xúc khiến cho mọi người quyết định mua hàng, bạn chắc chắn sẽ bán được nhiều hơn nữa và có thêm nhiều khách hàng hăm hở muốn mua hàng của bạn. Cảm xúc thúc đẩy chúng ta mua hàng. Đừng nhầm lẫn cho rằng mọi người mua thứ mà họ cần. Mọi người mua thứ mà họ MUỐN. Nhu cầu bị điều khiển bởi logic, nhưng mong muốn lại bị điều khiển bởi cảm xúc.

Chúng ta mua những thứ chúng ta MUỐN



"Khách hàng không cần phân tích được hơn để quyết định mua món hàng của bạn. Họ mua khi họ cảm thấy MUỐN mua." - Zig Ziglar

Ai cần một chiếc SUV (xe thể thao đa dụng) chứ? Một thiếu niên thực sự cần một chiếc điện thoại di động hay chiếc quần jean giá 200 đô? Vì sao mọi người mua hàng của bạn? Mọi người mua bởi họ MUỐN nó. Mỗi ngày, chúng ta mua những thứ chúng ta muốn thay vì những thứ mà chúng ta cần.

Đừng nhầm lẫn giữa thị trường và "những người cần mua sản phẩm của bạn". Bạn sẽ chỉ tốn thời gian và tiền bạc thuyết phục những người cần sản phẩm của bạn mua hàng. Thị trường mục tiêu tốt nhất là những người MUỐN sản phẩm của bạn. Họ có thể cần hoặc KHÔNG cần sản phẩm của bạn. Miễn là họ muốn, họ sẽ mua sản phẩm của bạn. Hãy thử lục lại trí nhớ xem gần đây những thứ nào bạn mua không phải vì bạn cần chúng mà là vì bạn muốn?

Ai nên tham gia một câu lạc bộ thể hình? Tất cả những người muốn có thân hình gọn gàng – đặc biệt là những người chưa-có-thân-hình-gọn-gàng. Nhưng ghé thăm một câu lạc bộ thể hình, bạn thấy gì? Những người có thân-hình-gọn-gàng muốn được "gọn gàng"! Ai đầu tư tiền bạc của họ vào tương lại? Không phải những người cần tiết kiệm cho tương lai mà là những người muốn tiết kiệm cho tương lai.

Bạn có thể cảm thấy rằng mình cần một ly rượu vang, một hớp rượu Scotch hoặc một cốc bia vào cuối ngày, nhưng thực tế là bạn muốn nó. Tất cả chúng ta đều cần phải ăn, nhưng không ai cần một miếng thịt bò thăn hay chiếc đùi gà KFC.Chúng ta ăn những thứ đó vì chúng ta muốn.

Nhu cầu của chúng ta thuộc về logic và thực tế. Là con người, chúng ta có những nhu cầu về vật chất và tình cảm. Cách chúng ta thỏa mãn những nhu cầu đó được điều khiển bởi tính cấp thiết của nhu cầu và mong muốn của chúng ta. Mong muốn lại bị chi phối bởi cảm xúc. Dưới đây là 5 trong số những cảm xúc mạnh mẽ nhất điều khiển phần lớn lựa chọn của chúng ta. Nếu bạn hiểu được những nguyên nhân cảm xúc thúc đầy khách hàng mua sản phẩm của bạn, bạn cũng có thể "kích hoạt" những cảm xúc này ở những khách hàng tiềm năng.

Tình Yêu



Bạn có sẵn lòng chi tiền để mua vui cho chú chó cưng của mình?

Khách hàng của bạn yêu thích những gì? Đó có thể là người yêu, gia đình, thú cưng, công việc kinh doanh, nghề nghiệp, văn hóa, sở thích, sách, thời gian cá nhân...Họ có mua hàng của bạn cho một trong số những "tình yêu" này không? Nếu vậy, làm sao để bạn nhận ra và khuyến khích những người khác cũng có cùng tình yêu đó?

Tình yêu là một cảm xúc mạnh mẽ. Chúng ta có thể làm những thứ kì lạ khi yêu và vì tình yêu. Mọi người sẽ muốn dành tặng thật nhiều những món quà đẹp và đắt tiền cho những người mình yêu thương. Họ có thể sáng tác nhạc, thơ hay chịu đựng được gian khổ - tất cả là vì tình yêu. Con người còn có thể làm những việc kì quặc hơn vì tình yêu với thú cưng. Tình yêu đối với một sở thích, hình thức nghệ thuật, văn hóa có thể thúc đẩy chi tiêu những khoản tiền lớn để đạt được, để nuôi dưỡng và tận hưởng tình yêu đó.

Kiêu hãnh



Bạn có bao giờ mua món hàng nào vì sự hào nhoáng và kiêu hãnh?

Nếu kiêu hãnh được coi là một tội lỗi, vậy thì điều đó sẽ khiến tất cả chúng ta thành những tội đồ. Tại sao người hàng xóm của bạn mua một chiếc tivi màn hình lớn hơn của nhà bạn? Cảm giác của bạn như thế nào khi lần đầu tiên được lái chiếc xe mới tinh về nhà? Bạn tự hào về ai và về điều gì? Và bạn sẽ làm gì để thể hiện và bảo vệ niềm tự hào đó?

Tội lỗi



"Hide the guilt" - Che giấu tội lỗi. Bạn có hiểu nội dung của quảng cáo này?

Thường rất khó để biết được nguyên nhân thực sự khiến ai đó mua thứ gì đó mới, đầu tư tiền hoặc tặng quà. Đó là vì yêu hay vì tội lỗi? Có phải tội lỗi là động cơ thực sự đằng sau việc chi tiền cho những món quà giáng sinh, Valentines và Ngày của Mẹ? Liệu có phải cảm giác tội lỗi vì không mua thúc đẩy khách hàng tiềm năng mua? Bạn có thể sử dụng cảm giác tội lỗi để bán được nhiều hàng hơn? Có phải những người bán hàng door-to-door bán bách khoa toàn thư hoặc máy hút bụi đã lợi dụng cảm giác tội lỗi của khách hàng? Đó là tình yêu hay cảm giác tội lỗi lướt qua tâm trí một người khi họ làm tang lễ cho một người thân yêu đã mất? Bạn có thấy tội lỗi khi không khai thác cảm xúc của khách hàng tiềm năng và bỏ lỡ những đơn hàng?

Tham lam



Tham lam không phải xấu. Tham lam là tốt.

"Greed is good" (tham lam là tốt), theo lời của Gordon Gecko trong bộ phim Wall Street. Câu nói đó có thể làm nhiều người xem bị sốc. Hãy xem xét lời khuyên có vẻ lạ lùng này: "Sell to the greedy, not the needy" (Bán cho kẻ tham lam chứ đừng bán cho người nghèo). Người tham lam sẽ muốn nhiều hơn nữa, và sẽ trả tiền để có bằng được. Người nghèo thường nghèo vị mong muốn của họ không đủ mạnh mẽ. Nếu bạn muốn giúp người nghèo thì tốt hơn là đi làm từ thiện.

Sợ hãi

Đây là cái điều khiển con người mạnh mẽ nhất. Cảm xúc này hơn bất cứ cảm xúc nào khác dường như đã giúp loài người tồn tại. Chúng ta biết sợ hãi những con thú dữ, lửa và những người man rợ.

Vậy sự sợ hãi nào có thể thúc đẩy khách hàng tiềm năng mua hàng của bạn? Không mua chúng có thể đặt họ vào thế liều lĩnh, bỏ lỡ cơ hội hoặc sự bối rối? Rất nhiều người mua hàng trên nguyên tắc sợ hãi. Đó không phải là vì họ muốn đưa ra quyết định đúng đắn, họ sợ hậu quả của việc quyết định sai. Bạn sử dụng hoặc làm giảm bớt nỗi sợ hãi đó như thế nào để khiến họ mua hàng của bạn? Tại sao những người nhận thức được rằng họ cần phải giảm cân đột nhiên thay đổi chế độ ăn và bắt đầu tập thể dục sau cơn đau tim đầu tiên? Đó là nỗi sợ hãi cái chết làm họ muốn giảm cân.

Kết luận

Tại sao chúng ta mua hàng? Chúng ta mua hàng vì những mong muốn mang tính cảm xúc. Bạn có thể sẽ gặt hái được những thành công không ngờ hơn nếu biết cách tiếp thị sản phẩm dựa trên khai thác đúng những khía cạnh cảm xúc của khách hàng tiềm năng có mối liên hệ nhất định đến sản phẩm của mình.
Đọc tiếp »

9 sai lầm cần tránh trong Digital Marketing

1. Không có mục tiêu chiến dịch rõ ràng

Ông Geoff Hoesch - Giám đốc của công ty Dragonfly Digital Marketing cho rằng một trong những sai lầm lớn nhất của các nhà tiếp thị kỹ thuật số là “không có các mục tiêu phân tích cụ thể trước khi bắt đầu một chiến dịch”.
Ông cho biết, để theo dõi sự thành công của một chiến dịch tiếp thị kỹ thuật số, điều cần thiết là xác định mục tiêu (bán hàng, hoàn tất mẫu đơn, cuộc gọi, việc đăng ký…) và đảm bảo tiến trình giám sát được thiết lập đúng theo mục tiêu này”.
Theo ý kiến của ông Justin Honaman, Phó chủ tịch cấp cao của Moxie - một công ty kỹ thuật số toàn cầu, “ngoài những mục tiêu đo lường được thì những mục tiêu của chiến dịch cũng dùng để đo lường ROI (chỉ số Lợi tức đầu tư) hoặc lợi ích ròng của một chiến dịch về sản phẩm, dịch vụ bán hàng, các yếu tố cảm tính hoặc những cam kết đối với khách hàng”.
Đó là lý do tại sao “điều quan trọng là xác định, truyền đạt mục tiêu, lập kế hoạch cho các chiến dịch trong tương lai”.

2. Không xác định đúng đối tượng mục tiêu

Michelle Stinson Ross content & outreach goddess, Authority Labs - một công ty cung cấp phần mềm SEO - đưa ra quan điểm: Cho dù một thương hiệu tạo ra được những nội dung tốt thì cũng khó đạt được thành công nếu họ không hành động để đưa nó đến đúng đối tượng vào đúng thời điểm.
Tất cả các kênh giao tiếp kỹ thuật số đang trở nên rối loạn, khủng hoảng thông tin và cần nhiều nỗ lực hơn để thu hút sự quan tâm của khách hàng. Xác định khách hàng mục tiêu cần dựa trên những đặc tính cá nhân và cả hành vi khách hàng.
Hãy sử dụng các tracking pixel và cookie để tiếp cận với những người đã truy cập trang web của bạn, hoặc tham gia danh sách email của bạn. Hãy xác định đúng đối tượng mục tiêu bằng các chỉ số về độ tuổi, giới tính, giáo dục và những chủ đề quan tâm của khách hàng dựa vào chỉ số về nhu cầu mua sản phẩm sau chiến dịch quảng cáo và các sự kiện cuộc sống có liên quan.

3. Không tư duy theo thuyết khách hàng là trung tâm

Theo ý kiến của Penny Wilson - Giám đốc Marketing của Hootsuite, Marketing đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút và giữ chân khách hàng, và các tổ chức không có tư duy xem khách hàng là trung tâm sẽ bị bỏ lại phía sau. Các thương hiệu hiện nay có thể đưa ra những trải nghiệm thương hiệu cung cấp giá trị cho khách hàng và giữ chân khách hàng thông qua quá trình cá nhân hóa, thiết lập mục tiêu, lập bản đồ hành trình và phân tích dữ liệu khách hàng.
Marketing đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút và giữ chân khách hàng, và các tổ chức không có tư duy xem khách hàng là trung tâm sẽ bị bỏ lại phía sau.

4. Khách quan cá nhân hóa

“Hãy lên danh sách tên, giới tính, sở thích… và những thông tin tương tự như vậy”, Jess Stephens, CMO, SmartFocus nói. “Tôi thấy điều này từng ngày - nhóm nhân viên của tôi lập một ‘thư mục tiếp thị xấu’ để lưu trữ những mẫu [chào hàng cá nhân không đúng] thường xuyên nhận được.
Một kinh nghiệm của tôi là khi tôi mua một món quà cho một thành viên nam trong gia đình và xảy ra những bất đồng với một nhân viên tiếp thị. Điều này có thể dễ dàng tránh được bằng cách sử dụng công nghệ insight để giúp các nhà tiếp thị xác định chính xác sản phẩm và cung cấp cho khách hàng chính xác sản phẩm để thu hút khách hàng cho lần mua sắm tiếp theo của họ”.

5. Phớt lờ sự phát triển của điện thoại di động

Ông Martin Doettling, Giám đốc Marketing của Swrvei - công ty cung cấp các ứng dụng di động hỗ trợ quản lý các mối quan hệ khách hàng - phát biểu rằng điện thoại di động đang trở thành nền tảng kỹ thuật số, hiện chiếm 62% của tất cả các phương tiện truyền thông kỹ thuật số, vì vậy điều quan trọng là bạn phải xây dựng chiến lược Mobile Marketing đúng lúc.
Bằng việc theo dõi sự tương tác của khách hàng trên điện thoại di động bạn sẽ tạo ra những trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng. Ông cho rằng, nếu bạn chưa phát triển chiến lược tiếp thị dành cho di động của mình, hãy nghĩ đến phát triển một ứng dụng để có thể tiếp xúc với khách hàng và sau đó cung cấp những nội dung kịp thời, phù hợp có ý nghĩa để phát triển các mối quan hệ khách hàng của bạn.
Ngoài ra, “chắc chắn rằng trang web của bạn là tương thích với tất cả các thiết bị di động”, Jonathan Ceballos, giám đốc tiếp thị, USB Direct Memory nói. “Hãy đảm bảo dịch vụ bán hàng và những dịch vụ cung cấp đặc biệt khác được thể hiện trên các trang web điện thoại di động”.

6. Bỏ qua email marketing

“Có rất nhiều tin đồn xung quanh các kênh tiếp thị như điện thoại di động và xã hội. Tuy nhiên, bỏ qua kênh tiếp thị bằng email là một sai lầm to lớn”, Eric Stahl, phó chủ tịch cấp cao, Salesforce Marketing Cloud nói.
“Khi ranh giới giữa bán hàng, dịch vụ và marketing bị mờ, email vẫn là một sự liên kết các cuộc hành trình của khách hàng. Một cuộc khảo sát gần đây của MarketingSherpa cho thấy rằng 91% người trưởng thành ở Hoa Kỳ nói rằng họ muốn nhận email quảng cáo từ các công ty đối tác kinh doanh. Trong số đó, 86% muốn nhận email hàng tháng và 61% muốn nhận hàng tuần.
Ngoài ra, các nhà tiếp thị có thể kết hợp các dữ liệu từ email với dữ liệu của khách hàng qua các kênh phương tiện truyền thông xã hội - để có thể thấu hiểu những nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất”.

7. Không làm A / B hoặc thử nghiệm chia nhỏ

“Sử dụng thử nghiệm A / B để tối đa hóa hiệu quả của email của bạn”, Adam Jwaskiewicz, giám đốc dịch vụ tương tác tại PHG, một công ty quảng cáo cho biết.
“Ví dụ, phân phối cùng một email đến một nhóm thử nghiệm, nhưng sử dụng hai dòng chủ đề khác nhau. Khi gửi email thực tế, sử dụng dòng chủ đề mà thực hiện tốt nhất. Đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu thực tế, không phải cảm xúc định tính”.
Trong cộng đồng của bạn, sự tương tác và chia sẻ sẽ xây dựng một mối quan hệ sâu sắc hơn và ảnh hưởng tích cực đến kinh doanh trong thời gian dài.

8. Trở thành anti-social trên phương tiện truyền thông

Jessica Riches - nhà truyền thông chiến lược xã hội LMW Labs, cho biết nhiều nhà tiếp thị quên rằng truyền thông xã hội không chỉ là phương tiện phát sóng mà còn là không gian cho mọi người tham gia và tương tác. Trong cộng đồng của bạn, sự tương tác và chia sẻ sẽ xây dựng một mối quan hệ sâu sắc hơn và ảnh hưởng tích cực đến kinh doanh trong thời gian dài.

9. Mua lượng người theo dõi (follower) trên các phương tiện truyền thông xã hội

Theo phát biểu của Ceballos, mục đích của việc mua lượng người theo dõi trên các phương tiện truyền thông xã hội là để có nhiều lượt người theo dõi và người hâm mộ trên các tài khoản truyền thông xã hội.
Nó làm cho trang web của bạn được đánh giá, tạo sự tin tưởng, phổ biến và có uy tín tốt. Tuy nhiên, khách hàng ngày càng thông minh hơn và họ có thể nhìn ra được những hoạt động lượt người theo dõi ảo. Nếu họ tìm hiểu, bạn đã ngay lập tức sẽ được nhận qua tin nhắn mà bạn là “không đáng tin cậy”. Thay vào đó, hãy xây dựng một mạng lưới những người thực sự là khách hàng tiềm năng”.
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Tìm hiểu hành vi từng người dùng riêng biệt với Google Analytics (Individual user tracking)

Google Analytics luôn là một trong những tools cực kỳ quan trọng gần như không thể thiếu của dân làm Digital Marketing, Google Analytics có rất nhiều kiểu report có sẵn khác nhau và có rất nhiều cách customize khác nhau để phù hợp hơn với từng mục tiêu của website.
Nhưng vẫn có một tồn tại khó chịu nhất trước giờ đối với người dùng là Google Analytics không chấp nhận việc tìm hiểu hành vi người dùng theo kiểu “identify an individual personally ” tạm dịch là “xác định thông tin của từng người (user) riêng biệt”.
Hôm nay mình sẽ đi chi tiết hơn về để hiểu “identify an individual personally” trong Google Analytics là gì, cách xử trí vấn đề này để track từng user trên website của bạn với Google Analytics, cũng như mong muốn được nghe quan điểm của các bạn về vấn đề này.
1/ Lợi ích của việc track từng user trên website của bạn.
Mới nghe chắc có một số bạn sẽ nghĩ là không hiện thực lắm, khá mất thời gian khi xem từng user làm gì trong hàng ngàn user tương tác trên website.
Đây là một số lợi ích mà mình thấy:
- Bạn có đau lòng không khi thấy hàng ngàn user đã “add to cart” sản phẩm của bạn nhưng lại không chịu mua và bạn thì chẳng biết trong hàng ngàn người đó ai là người “quen” mà nhân viên của bạn có thể contact trực tiếp để dụ dỗ họ mua hàng? Dùng Re-targeting thì vẫn luôn có những giới hạn về target và chi phí…
- Bạn có muốn biết những user nào thích những sản phẩm nào trên website của bạn và đưa ra offer phù hợp cũng như có cách tiếp cận tốt hơn?
- Bạn có muốn biết user nào đã tìm kiếm gì trên website của bạn để bạn có cách tiếp cận tốt hơn?
- Bạn có muốn email mình gửi ra cho user sẽ ngày càng được personalize tốt hơn?
- Bạn hoàn toàn có thể segment user theo từng nhóm theo những hoạt động của họ trên web để nhìn tổng quan hơn…và nhiều lợi ích khác…
2/ Tại sao nên dùng Google Analytics
Dùng Google Analytics cho rẻ, code nhanh, lưu trữ dữ liệu lâu dài, khả năng tương tác với các loại dữ liệu khác nhau dễ.
Ngoài ra bạn còn có những lựa chọn sau để tìm hiểu hành vi từng người dùng:
Tự làm một hệ thống quản lý khách hàng và đổ mọi data người dùng duyệt web vào hệ thống này và theo dõi trên đó (CRM). (1)
Cài đặt một hệ thống tracking riêng sử dụng các open source về tracking như Piwik, Open Web Ananlytics. (2)
Mua các hệ thống tracking individual user như Mixpanel…(3)
Sử dụng Google Analytics. (4)
Đây là góc nhìn của mình đối với các cách trên:
(1) sẽ tốn rất nhiều resource của lập trình viên quy ra tiền thì rẻ cũng vài ngàn đô, tốt tốt có khi tới mấy trăm ngàn đô, (1) và (2) đều ngốn không gian lưu trữ khá khủng, nếu website của bạn càng lớn thì việc lưu trữ và xử lý dữ liệu qua năm tháng càng trở thành nỗi ám ảnh lớn.
Một ví dụ khi mình tìm hiểu về PIWIK:
A rough estimate of Piwik Mysql database size usage is approximately 1Gb for every 5M page views. If your website tracks 100k page views per day (3M pages per month), you can expect a DB size of ~ 7Gb after 1 year.
Tất nhiên với nhà giàu thì từng này dữ liệu không nhằm nhò gì, nhưng với khoản tiền bỏ ra để xử lý khối dữ liệu này có lẽ sẽ dùng được vào nhiều việc khác tốt hơn.
(1) và (2) cũng không thể link những data được ghi nhận lại để chuyển thành dữ liệu cho các chiến dịch Re-targeting với Google Adwords.
Với (3) thì sáng sủa hơn vì hệ thống có sẵn hết nhưng vẫn có những giới hạn như bạn phải trả tiền theo dữ liệu hàng tháng cho dù bạn có xài hết lượng dữ liệu đó hay không, bạn bị giới hạn ở lượng người dùng được tracking, và giá thì có thể mắc hơn (1) và (2), như Mixpanel thì tính sơ sơ bạn sẽ phải trả ít nhất $300 - $500/ 1 tháng - 1 con số không lớn nhưng cũng làm bạn cân nhắc khá nhiều.
3/ Vấn đề về Policy với Google Anlytics
Hiểu “identify an individual personally” như thế nào?
Đây là quy định sử dụng của Google Analytics:
Ở trang Protocol policy SDK (5):
You will not upload any data that allows Google to personally identify an individual (such as certain names, Social Security Numbers, email addresses, or any similar data), or data that permanently identifies a particular device (such as a unique device identifier if such an identifier cannot be reset), even in hashed form.
Ở điều khoản số 7, quy định việc sử dụng Google Analytics có một đoạn như sau:
You will not (and will not allow any third party to) use the Service to track, collect or upload any data that personally identifies an individual (such as a name, email address or billing information), or other data which can be reasonably linked to such information by Google.
Xử “trí” vấn đề policy như thế nào?
Qua các trích dẫn và tài liệu của Googlee cung cấp trên có thể thấy Google rất nhấn mạnh vấn đề “not upload any data that allows Google to personally identify an individual" (tạm dịch ” không upload những dữ liệu mà cho phép Google biết được người đó là ai").
Vậy nếu tất cả dữa liệu chúng ta upload (tracking) lên Google Analytics đều không phải là dữ liệu mà từ đó Google có thể xác định được người đó là ai thì sao?
Vấn đề đã được giải quyết tại đây nếu Google không thêm 1 câu thế này trong Google Anlytics Policy:
…or other data which can be reasonably linked to such information by Google.
other data ở đây mọi người thường hay hiểu là những loại dữ liệu liên quan khác và dùng để định danh được người dùng (trong ngữ cảnh của quote này).
Rất khó hiểu và nhập nhằng đúng không? Đây là một số ví dụ về việc other data không bao gồm việc upload thông tin lên Google Analytics để bạn có thể định danh được người dùng trong backend của bạn đang làm gì trên website:
Quay lại Google Analytics Policy (5):
Chỉ cần không upload những loại dữ liệu mà từ đó Google có thể định danh được người dùng.
You will not upload any data that allows Google to personally identify an individual (such as certain names, Social Security Numbers, email addresses, or any similar data), or data that permanently identifies a particular device (such as a unique device identifier if such an identifier cannot be reset), even in hashed form.
Cũng chính trên tính năng User ID, Google đã viết như sau:
Google Analytics cannot generate, assign, or manage the unique IDs that are assigned as User IDs. In a typical scenario, IDs can be generated through your authentication system, passed to an account when a user signs-in, and then sent to Google Analytics.
một bài post trên group Digital Marketing Agency, bạn Dat Hoang đã chia sẻ quan điểm như sau:
…theo như mình hiểu thì đây là cách để Google khẳng định mình không vi phạm luật thôi: tôi tuân theo luật, không thu thập các thông tin PII. Còn bạn làm gì đằng sau back-end thì làm, cái này rõ ràng Google không quản được. Nếu xa hơn thì bạn cần tuyên bố trong “Data Policy” của bạn Đơn cử như e-commerce tracking, nếu suy sâu xa ra, bạn dùng “Transaction ID” trong GA kết hợp với dữ liệu back-end của bạn thì track được tần tần tật thông tin về người dùng. Nhưng với Google, chỉ với “Transaction ID” thì không thể xác định được một người cụ thể…
Ngoài ra bạn Dat Hoang cũng chia sẻ link tới trang blog của David Simpson (Senior Developer and Solutions Architect at AppFusions), trong bài blog này có đoạn như sau:
Sending personally identifiable information (PII) to Google Analytics is strictly prohibited, but sending a unique user ID is permitted.
Thêm một thông tin trên blog của Cutroni (Analytics Evangelist tại Google)
To add Google Analytics data to a data warehouse you need to add some type of primary key to Google Analytics. In most of the work that I’ve done this key is a visitor ID. This anonymous identifier usually comes from some other system like a CRM…. ….I know what you’re thinking, “You can’t store personally identifiable information in Google Analytics!” But this isn’t personally identifiable information. And besides, this is the same as the transaction ID stored in the ecommerce data. Now that we’re done debating PII, we need to merge this data with other data. This is where things get complicated.
Ở đoạn trên Cutroni đã ví dụ việc lấy userID từ CRM và khẳng định đó không phải là thông tin cá nhân (personally identifiable information) và được phép sử dụng với Google Analytics, ngoài ra Cutroni cũng thực hiện động tác sử dụng dữ liệu user trên Google Analytics để so sánh với dữ liệu cá nhân trên CRM (we need to merge this data with other data).
Kết luận
Vậy có thể thấy việc định danh người dùng trên Google Analytics là không hợp pháp nếu những dữ liệu đó cũng có thể giúp Google định danh được người dùng, còn nếu dữ liệu đó không có ý nghĩa gì với Google thì dữ liệu đó là hợp pháp.
4/ Một thủ thuật nhỏ để yên tâm hơn và có thêm nhiều dữ liệu hơn:
Mỗi user khi truy cập vào một website sẽ được Google Analytics gán cho một giá trị khác nhau trong cookie có dạng như sau (Universal Analytics):
_ga=1.2.286403989.1366364567;
Các bạn hãy để ý đến giá trị: 286403989
Đây chính là giá trị Google gán mỗi user khi họ truy cập vào website của bạn và con số này là duy nhất ngẫu nhiên (Google nói vậy thì cũng tin vậy).
Vì con số này là ngẫu nhiên nên việc bạn upload con số này lên Google Analytics sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến Google Policy (làm sao để upload con số này thì hẹn một bài khác).
Từ đó bạn có thể lưu con số này lên Google Analytics và cũng gán con số này cho mỗi user trên website/CRM của bạn để định danh người dùng, với cách này bạn có thể xem thông tin từng người ngay trước khi họ trở thành khách hàng của bạn (có thể xem được cả quá trình trước và sau khi họ trở thành khách hàng của bạn từ đó sẽ hiểu rõ hơn làm sao để tăng conversion).
Có cùng góc nhìn và quan điểm? hay Khác quan điểm và góc nhìn? Hãy chia sẻ để mọi người có thêm nhiều nguồn thông tin hữu ích.
Bài viết chứa có hình minh họa phù hợp >> Giới thiệu hình minh họa cho bài này
Đọc tiếp »

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

CÁCH ĐƠN GIẢN ĐỂ PHÂN TÍCH DÒNG TIỀN

Nếu bạn tin vào câu ngạn ngữ cổ "phải mất tiền mới làm ra tiền" thì hẳn bạn sẽ nắm bắt được bản chất của dòng tiền và ý nghĩa của nó với một công ty. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy cách thức công ty sử dụng tiền mặt (dòng tiền ra) và nguồn gốc tiền mặt (dòng tiền vào). 
Chúng ta biết rằng khả năng sinh lời của công ty thường được thể hiện bởi thu nhập ròng- đây là một chỉ số đánh giá đầu tư quan trọng. Khi đánh giá hiệu quả hoạt động tổng thể của công ty, nhiều người nghĩ ngay đến thu nhập ròng. Tuy nhiên, mặc dù kế toán dồn tích cung cấp cơ sở cho việc khớp doanh thu với chi phí, hệ thống này không thực sự phản ánh giá trị công ty đã nhận được từ lợi nhuận trong hệ thống này. Điều này tạo nên sự khác biệt căn bản. Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu xem một cái báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ phản ánh những thông tin hữu ích gì về doanh nghiệp cũng như cách để tìm thấy những thông tin này.

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THU NHẬP VÀ TIỀN MẶT

Trong một bài báo vào tháng Tám năm 1995 của tờ Individual Investor, Jonathan Moreland đưa ra bản đánh giá rất cô đọng về sự khác biệt giữa thu nhập và tiền mặt. Ông nói rằng "tính thanh khoản của công ty cũng quan trọng như khả năng sinh lời của nó" bởi chỉ số này cho biết liệu công ty có đủ tiền để hoàn thành nghĩa vụ nợ của mình hay không. Và xét cho cùng, công ty sẽ bị phá sản nếu không thể trả được các hóa đơn, chứ không phải vì không có lợi nhuận. Ngày nay, đây là điều hiển nhiên. Vậy mà nhiều nhà đầu tư vẫn thường bỏ qua nó. Bằng cách nào ư? Bằng cách chỉ nhìn vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh chứ không phải là báo cáo lưu chuyển tiền tệ."

BÁO CÁO LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ba phần riêng biệt, mỗi phần là một hoạt động đặc thù - hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài chính. Đối với nhà đầu tư ít kinh nghiệm, sẽ dễ dàng hơn để hiểu được ý nghĩa của một báo cáo lưu chuyển tiền tệ khi sử dụng các chú thích tài khoản, tức là mô tả và tiêu chuẩn hóa các thuật ngữ và các định dạng trình bày được sử dụng bởi tất cả các công ty:
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh: Đây là nguồn cốt yếu sinh ra tiền mặt cho công ty và cũng là lượng tiền mặt mà bản thân công ty kiếm được chứ không phải các khoản vốn đến từ hoạt động đầu tư và tài chính bên ngoài. Trong phần này của báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thu nhập ròng (trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) sẽ được điều chỉnh theo các khoản phí không dùng tiền mặt và sự thay đổi của các tài khoản vốn lưu động - tài sản và nợ từ hoạt động trong bảng cân đối kế toán thời điểm hiện tại.
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư: Phần lớn các giao dịch đầu tư đều tạo ra dòng tiền âm (dòng tiền đi ra), chẳng hạn như chi phí vốn cho tài sản, máy móc thiết bị, mua lại doanh nghiệp và mua chứng khoán đầu tư. Còn ngược lại dòng tiền vào đến từ việc bán tài sản, bán công ty và bán chứng khoán đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, các mục quan trọng nhất trong phần này là chi phí vốn (sẽ được giải thích sau). Ta thường giả định rằng chi phí này là một điều cần thiết cơ bản để đảm bảo sự duy trì và bổ sung cho tài sản vật chất của công ty nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh .
Dòng tiền từ hoạt động tài chính: Phần này đề cập đến nợ và các giao dịch vốn chủ sở hữu. Các công ty phải liên tục vay và trả nợ. Việc phát hành chứng khoán ít xảy ra hơn. Ở đây, một lần nữa, các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư vì mục đích thu nhập thì thứ quan trong nhất với họ là cổ tức được trả bằng tiền mặt . Và các công ty thường phải cho cổ đông cổ tức bằng tiền mặt chứ không phải lợi nhuận

MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐƠN GIẢN ĐỂ PHÂN TÍCH BÁO CÁO LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ 

Dòng tiền của công ty có thể được định nghĩa là con số xuất hiện  trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ dưới dạng giá trị thực của tiền mặt từ hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, không có định nghĩa chung nào cho cái gọi là dòng tiền của công ty. Ví dụ, nhiều chuyên gia tài chính coi dòng tiền của công ty là tổng thu nhập ròng và khấu hao (chi phí không dùng tiền mặt trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh). Mặc dù thường sát với con số dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh nhưng cách tính tắt này có thể dẫn đến nhiều sai sót vì vậy các nhà đầu tư nên gắn bó với con số dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh.
Phân tích dòng tiền thường sử dụng một vài tỷ số khác nhau và các tỷ số sau đây là xuất phát điểm phù hợp để nhà đầu tư đo lường chất lượng đầu tư của dòng tiền của một công ty:
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh/Doanh thu thuần: tỷ số này là tỷ lệ phần trăm của dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của một công ty so với doanh số bán hàng thuần, hoặc doanh thu (từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) của nó. Nó cho chúng ta biết ta nhận được bao nhiêu đồng trên một đồng doanh số bán hàng.
Không có một tỷ lệ phần trăm chính xác nào để tham chiếu, nhưng rõ ràng, tỉ lệ này càng cao càng tốt. Cũng cần lưu ý rằng tỷ số này trong các công ty sẽ khác với tỷ số trung bình của ngành. Nhà đầu tư nên theo dõi diễn biến lịch sử của chỉ số này để phát hiện ra những sai khác đáng kể so với dòng tiền trung bình của công ty/doanh thu cũng như so sánh chỉ số này của công ty với các công ty trong ngành. Ngoài ra, cần theo dõi xem khi doanh thu tăng thì dòng tiền tăng như thế nào; và điều quan trọng là chúng thay đổi với tốc độ ngang nhau theo thời gian hay không.
Lịch sử của dòng tiền tự doDòng tiền tự do thường được định nghĩa là dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí vốn. Việc tạo ra dòng tiền tự do ổn định và nhất quán là một đặc tính đầu tư có lợi, vì vậy hãy tìm một công ty có dòng tiền tự do ổn định và tăng trưởng.
Nếu muốn cẩn thận hơn, bạn có thể đi sâu vào những thành phần của dòng tiền tự do. Ví dụ, ngoài chi phí vốn, bạn cũng có thể trừ cả cổ tức từ dòng tiền hoạt động thuần để có được cái nhìn toàn diện hơn về dòng tiền tự do. Sau đó có thể so sánh con số này với doanh số bán hàng như đã trình bày ở trên.
Trên thưc tế, nếu công ty có lịch sử thanh toán cổ tức, thì công ty không thể dễ dàng hoãn hoặc bỏ chúng mà không gây ra thiệt hại cho cổ đông. Thậm chí khi việc cắt giảm cổ tức ít gây thiệt hại, nó vẫn là vấn đề đối với nhiều cổ đông. Nhìn chung, thị trường coi việc chi trả cổ tức và chi phí vốn là cùng một phạm trù, đều là những chi tiêu tiền mặt cần thiết.
Nhưng ở đây điều quan trọng là tìm được một mức ổn định. Điều này không chỉ cho thấy khả năng công ty tạo ra dòng tiền mà nó cũng báo hiệu rằng công ty có đủ năng lực để tiếp tục đầu tư các hoạt động của mình hay không. 
Tỷ số thanh toán dòng tiền tự do toàn diện: Bạn có thể tính tỷ số thanh toán dòng tiền tự do toàn diện bằng cách chia dòng tiền tự do toàn diện cho tiền thuần từ hoạt động kinh doanh để ra được tỷ lệ phần trăm. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
Dòng tiền tự do là một tiêu chí đánh giá quan trọng đối với các nhà đầu tư. Nó thể hiện tất cả những ưu điểm của dòng tiền mặt do chính hoạt động của công ty tạo ra cũng như việc sử dụng dòng tiền này cho chi phí vốn. Nếu công ty có thể đáp ứng được thử thách này, nó sẽ có không cần phải vay vốn quá mức để mở rộng kinh doanh, trả cổ tức và chống trọi với những thời điểm khó khăn.
Thuật ngữ "cash cow"  được áp dụng để chỉ các công ty có dư dả dòng tiền tự do không phải là một thuật ngữ tao nhã, nhưng nó chắc chắn là một trong những đặc tính đầu tư hấp dẫn mà bạn cần xem xét. 

KẾT LUẬN

Một khi hiểu được tầm quan trọng của quá trình tạo ra và báo cáo dòng tiền, bạn có thể sử dụng các chỉ số đơn giản này để thực hiện phân tích cho chính danh mục đầu tư riêng mình. Như Moreland đã nói ở trên, điều quan trọng là tránh "chỉ nhìn vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà không xem xét báo cáo lưu chuyển tiền tệ." Cách tiếp cận này sẽ giúp tìm ra cách thức mà công ty chi trả nợ cũng như tạo ra tiền mặt cho các nhà đầu tư.

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016

Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch golf Việt Nam

Được du nhập vào Việt Nam từ năm 1922 khi vua Bảo Đại cho xây dựng sân golf đầu tiên tại Đà Lạt, tuy nhiên môn thể thao – giải trí golf chỉ bắt đầu được biết đến nhiều vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
 

Đến nay, ở Việt Nam có khoảng 6000 người tham gia chơi golf bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam với 15 sân golf đã đi vào hoạt động, cùng khoảng 30 dự án sân golf khác đang và sẽ được triển khai trên cả nước.   
 
Hoạt động chơi golf đã là cơ sở tạo nên một loại hình du lịch mới tại Việt Nam. Là một loại hình du lịch cao cấp do vậy du lịch golf thu hút nhóm khách du lịch là những người có khả năng chi trả cao.
 
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH GOLF
 
Điều kiện tự nhiên thuận lợi
 
Việt Nam có đồi và núi, bờ biển dài 3.260km với nhiều vịnh, bãi biển nổi tiếng thế giới; khí hậu của Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm và mưa nhiều; nhiệt độ trung bình năm từ 220C đến 270C phù hợp cho các hoạt động ngoài trời. Sự đa dạng, phong phú về cảnh quan và các hệ sinh thái có giá trị như các hệ sinh thái biển đảo, hệ sinh thái sông hồ, hệ sinh thái rừng núi, hang động… giúp Việt Nam có môi trường không gian thoáng đãng, cảnh quan đẹp cần thiết cho các sân golf vì đặc thù của golf là một hoạt động thể thao giải trí, thư giãn.
 
Vị trí địa lý của Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực có loại hình du lịch golf phát triển. Theo công ty Sports Marketing Surveys của Anh, hiện nay châu Á là khu vực có số lượng người chơi golf nhiều thứ hai trên thế giới với khoảng 13,6 triệu người, gần gấp đôi lượng người chơi golf ở châu Âu và chỉ đứng sau Hoa Kỳ.
 
Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam từ các quốc gia có loại hình du lịch golf phát triển cao. Giai đoạn 2000 - 2007, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chủ yếu là từ các quốc gia và vùng lãnh thổ có golf phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, Pháp, Anh, Australia, Đức… Mặt khác, lượng khách du lịch quốc tế từ các thị trường này lại có tốc độ tăng trưởng rất nhanh.
 
Ngày nay, golf được sử dụng như là một phương tiện quan trọng trong việc tạo ra những mối quan hệ và giải quyết các vấn đề trong kinh doanh. Chính vì vậy, khi hoạt động kinh doanh thương mại và đầu tư gia tăng sẽ kéo theo sự phát triển của các chuyến đi với mục đích chơi golf. Những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài. Việt Nam đang trở thành một điểm hấp dẫn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Lượng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam (FDI) giai đoạn 2000 - 2007 tăng trung bình thêm 40%/năm. Các dự án đầu tư nước ngoài đã tạo ra một nguồn du khách golf dồi dào cho Việt Nam.
 
Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có 235 dự án đầu tư FDI vào lĩnh vực du lịch được cấp phép với tổng vốn đăng ký lên đến hơn 6,1 tỷ USD. Trong đó, tổng lượng vốn đầu tư cho việc xây dựng mới hàng chục  sân golf đạt khoảng hơn 2 tỷ USD. Ngoài ra còn có rất nhiều dự án có quy mô vốn lớn đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, nghỉ dưỡng giải trí cao cấp… Đó là những dịch vụ đi kèm được đòi hỏi trong các tour du lịch golf.
 
Việc Việt Nam ký kết các hiệp định miễn visa song phương cho khách du lịch của 6 quốc gia trong ASEAN, cũng như miễn visa đơn phương cho 6 quốc gia khác là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Phần Lan và Na Uy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch golf ở Việt Nam, vì đó đều là các quốc gia thuộc khu vực có golf phát triển, đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc. Theo thống kê, có đến 60 – 65% lượng khách du lịch golf ở Việt Nam là công dân của hai quốc gia này.
 
Chính phủ đã cho phép tổ chức hình thức du lịch caravan đi bằng ôtô tay lái nghịch từ các quốc gia trong khu vực ASEAN vào du lịch Việt Nam theo con đường xuyên Á. Điều này tạo cơ hội cho lượng khách du lịch quốc tế nói chung và khách du lịch quốc tế với mục đích chơi golf tới Việt Nam ngày càng gia tăng. 
 
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA DU LỊCH GOLF Ở VIỆT NAM
 
Du lịch golf ở Việt Nam chưa có sự liên kết với các công ty lữ hành, chủ yếu dưới dạng du lịch cuối tuần và du lịch trong ngày. Khách du lịch golf đa phần là những người nước ngoài và người Việt Nam sống và làm việc ở các khu đô thị hoặc các khu chế xuất công nghiệp xung quanh các sân golf. Theo khảo sát, có đến 87% số khách du lịch golf cư trú trong phạm vi có bán kính khoảng 80 – 100km tính từ các sân golf, vì vậy họ đều tự tổ chức chuyến đi của mình và quay về trong ngày. Lượng khách du lịch golf đi theo hình thức các tour du lịch được tổ chức bởi các công ty du lịch – lữ hành chỉ chiếm khoảng 5%, do vậy việc khai thác kinh doanh các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống buổi tối, giải trí, thể thao – nghỉ dưỡng, biểu diễn văn hóa nghệ thuật, mua sắm… không đạt hiệu quả cao.
 
Du lịch golf chưa có sự kết hợp với các loại hình du lịch khác như: MICE, tàu biển, nghỉ dưỡng – giải trí cao cấp (resort), casino, caravan… mặc dù Việt Nam đang có lợi thế về các loại hình du lịch đó cho nên không tạo ra được những chuyến đi với các sản phẩm du lịch phong phú, hấp dẫn, không kéo dài được thời gian lưu trú của khách du lịch và đạt doanh thu cao…
 
Phần lớn các sân golf tại Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống sân bãi đánh golf. Mặt khác, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm cung ứng các dịch vụ như lưu trú, ăn uống, giải trí – nghỉ dưỡng và các dịch vụ bổ sung khác cũng chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng, phong phú và cao cấp của nhóm khách du lịch có khả năng chi trả cao này. 
 
Việt Nam chưa tổ chức được nhiều giải thi đấu golf chuyên nghiệp, mới chỉ tổ chức được hai giải thi đấu golf chuyên nghiệp là giải Carlsberg Master Cup hàng năm, bắt đầu từ năm 2004 tại sân golf Chí Linh và giải ngân hàng Hana Bank tại sân golf Đồng Mô đầu năm 2008, còn phần lớn các giải golf được tổ chức ở Việt Nam chỉ là các giải giao hữu hay quảng cáo cho một sản phẩm nào đó, do vậy không hấp dẫn được các tay golf chuyên nghiệp nổi tiếng thế giới.
 
Mặt khác, các sân golf ở Việt Nam hiện nay chưa có sự liên kết với các sân golf trong khu vực để tạo ra các tour du lịch golf chuyên nghiệp, làm tăng giá trị của sản phẩm du lịch golf, đem lại cho khách du lịch các cảm giác khác nhau khi chơi ở các sân golf khác nhau vì vậy không phát huy hết những tiềm năng về du lịch golf trên cả nước.
 
ĐỀ XUẤT CÁC NHÓM GIẢI PHÁP
 
Nhóm giải pháp ở cấp độ Nhà nước
 
- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài
 
Việc thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn đã tạo điều kiện cho golf ở Việt Nam phát triển do phần lớn khách du lịch golf, khoảng 80% lượng khách tới các sân golf đều là khách nước ngoài.
 
Đầu tư nước ngoài còn tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung ứng cho du lịch golf (sân golf, khu nghỉ cao cấp, khách sạn, nhà hàng lớn…).
 
- Tiếp tục có các chính sách thuận lợi cho hoạt động du lịch vào Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khách du lịch trong việc nhập cảnh vào Việt Nam du lịch, nhất là các khách du lịch từ các quốc gia, vùng lãnh thổ được coi là các thị trường gửi khách du lịch golf lớn tới Việt Nam bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hongkong, Đài Loan… cũng như một số quốc gia có golf phát triển ở châu Âu: Anh, Xcốt Len, Ai Len, Pháp… Phát triển các loại hình du lịch thu hút nhóm khách có khả năng chi trả cao như du lịch tàu biển, nghỉ dưỡng, casino, caravan… vào Việt Nam.
 
- Tích cực đăng cai, tổ chức các sự kiện quốc tế lớn
 
Các sự kiện quốc tế lớn về chính trị – ngoại giao hay kinh tế – thương mại - đầu tư đều được coi là các cơ hội hết sức tiềm năng cho việc phát triển du lịch golf ở Việt Nam, vì các hội nghị này luôn có các hoạt động giao lưu thi đấu golf giữa các thành viên trong hội nghị và golf được coi như một phần tạo nên sự thành công của các hội nghị ấy.
 
Nhóm giải pháp ở cấp độ Bộ chủ quản
 
- Tổ chức các giải thi đấu golf chuyên nghiệp quốc gia và quốc tế
 
Các giải thi đấu golf chuyên nghiệp được tổ chức không những thu hút được những khách du lịch golf bao gồm những người thi đấu golf chuyên nghiệp khắp nơi, đông đảo khán giả ham thích golf mà còn tạo ra các phong trào chơi golf ở Việt Nam. Các giải thi đấu golf chuyên nghiệp còn là một hình thức quảng cáo cho du lịch golf cũng như các sân golf ở Việt Nam từ đó thúc đẩy sự phát triển của du lịch golf.
 
- Tăng cường công tác xúc tiến quảng bá: thông qua các hoạt động ngoại giao, kinh tế của nhà nước hay các kênh thông tin của Chính phủ để tiến hành quảng bá cho golf Việt Nam; lồng ghép hoạt động golf trong các chương trình quảng bá du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng.
 
Nhóm giải pháp ở cấp độ các cơ sở kinh doanh dịch vụ golf
 
- Nâng cấp và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, tiện nghi và hiện đại nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách du lịch golf.
 
- Đa dạng hóa các dịch vụ bổ sung như phòng hội thảo, điện thoại, fax, thiết bị thu phát sóng vệ tinh, đường truyền internet ADSL..., bể bơi, sauna, bể sục, bể ngâm tắm nước khoáng, khu chăm sóc sắc đẹp spa, sân tennis, quầy bán đồ lưu niệm, biểu diễn nghệ thuật buổi tối, dịch vụ bán hàng cao cấp và dịch vụ đặt vé máy bay tại sân golf.
 
- Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp lữ hành nhằm giúp cho sân golf có lượng khách dồi dào, tăng hiệu quả kinh doanh làm cho sản phẩm du lịch của các doanh nghiệp lữ hành trở nên phong phú.
 
- Liên kết giữa các sân golf sẽ làm tăng giá trị cũng như đa dạng hóa sản phẩm golf từ đó tạo ra sức hấp dẫn lớn hơn, tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau về khách du lịch golf và thu hút được nhiều khách du lịch golf hơn.
 
- Liên kết với các cơ quan, tổ chức ngoại giao, thương mại lớn bởi đây là nguồn cung cấp khách du lịch golf dưới hình thức du lịch MICE.
 
Phát triển loại hình du lịch golf sẽ là một phần quan trọng của kế hoạch phát triển du lịch Việt Nam nhằm thu hút 6 triệu khách du lịch quốc tế vào năm 2010. Điều này phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 03/2007/NQ-CP của Chính phủ ngày 19/01/2007, trong đó nêu rõ: "Nâng cao chất lượng dịch vụ đẩy mạnh quảng bá du lịch Việt Nam; phát triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch chất lượng cao”.
 
Đọc tiếp »

Marketing Communication (Ngành truyền thông).

Marketing Communication (Ngành truyền thông).
* chữ Communication được dịch là ra truyền thông, nhưng nó cần được hiểu là "giao tiếp", là "quá trình giao tiếp". MarCom là ngành quản trị giao tiếp giữa doanh nghiệp với người dùng.
Ngành này phức tạp, bởi mọi thứ đơn giản trên đời này đều được các bạn làm MarCom làm cho phức tạp lên. Nhưng chung quy có thể hiểu rằng để giao tiếp với khách hàng, doanh nghiệp có mấy cách sau:
Trực tiếp:
- Sale
- Advertising
Gián tiếp:
- PR
Marketing Media (cũng được dịch là ngành truyền thông)
* chữ Media được dịch là truyền thông, nhưng nó cần được hiểu là "phương tiện giao tiếp", "công cụ giao tiếp", "kênh giao tiếp". Ngành MarMe là ngành quản trị các kênh tiếp cận trong giao tiếp giữa doanh nghiệp với người dùng. Tức là, người dùng ở đâu, doanh nghiệp chạy theo đó.
Các cách thức, công cụ, kênh giao tiếp này là TV, báo, đài, bảng hiệu ngoài trời,... Sau này internet lên ngôi thì có thêm các kênh tiếp cận mới như mail, web, display ads, sms, social,... mà người ta gom lại gọi một cách thần thánh với cái tên Digital Marketing.
Bản chất của MarCom không thay đổi, quá trình giao tiếp diễn ra vẫn chỉ có hai phương thức là trực tiếp hoặc gián tiếp, trên bất kỳ kênh tiếp cận nào cũng vậy, cho dù hiện đại hay truyền thống.
Digital Media là bắt buộc, bởi nó phát triển dựa trên sự thay đổi về hành vi giao tiếp của con người, của tất cả chúng ta. Vì vậy, khi học PR hay Advertising thì cần học luôn về Digital. PR trong kỷ nguyên digital, Advertising trong kỷ nguyên digital. Các bạn mới vào MarCom thì cứ bình tĩnh đi từ từ, tìm hiểu tuần cái rộng đến cái sâu, từ cái nhỏ đến lớn, làm từ thấp lên cao. Phải hiểu về Sale, về Marketing, rồi mới đến PR, Advertising. Còn digital thì chắc chắn rồi.
Các trung tâm dạy cũng nên dạy như vậy. Bớt tools, bớt cheating, bớt hacking, cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn nhiều
Đọc tiếp »

Nếu không bán nhanh thì chỉ vài năm nữa, Thế Giới Di Động sẽ gục ngã bởi "ngàn vết xước"

Bán lẻ di động là một mô hình kém bền vững. Vì vậy không lạ khi các cổ đông thúc giục FPT bán đi FPT Shop ngay tại thời điểm đang thành công lớn. Trong mắt các cổ đông, mô hình này chỉ phù hợp để đầu tư, xây dựng thật nhanh và chắc chắn là tới "game" thoái vốn. Và Thế giới di động cũng không ngoại lệ.

Nếu không bán nhanh thì chỉ vài năm nữa, Thế Giới Di Động sẽ gục ngã bởi "ngàn vết xước"
Trong cuốn sách viết về Chiến lược Đại dương Xanh của mình, tác giả W.Chan Kim và Renée Mauborgne đề cập tới việc DN thay vì cố gắng cạnh tranh trong một "Đại dương Đỏ" gồm toàn những đối thủ sừng sỏ, sao không tự tạo ra một "Đại dương Xanh" của riêng mình, nơi không có đối thủ, cạnh tranh không còn cần thiết và giành lấy những nhu cầu mới của khách hàng.
Thế giới di động là một trong số ít những thương hiệu Việt Nam đã thành công trong việc tạo lập một Đại dương Xanh của riêng mình. Thay vì chọn cạnh tranh giá bán như tất cả các thương hiệu thời bấy giờ, Thế giới di động chọn cho mình con đường khác: Bán hàng chính hãng (giá cao) đi kèm chất lượng dịch vụ tuyệt vời.
Sự khác biệt này giúp TGDĐ nhanh chóng gặt hài thành công. Doanh thu của hãng bán lẻ di động này đạt trên 25.000 tỉ đồng, vượt xa mọi đối thủ khác trên thị trường. Trong đó, chuỗi cửa hàng bán lẻ TGDĐ đạt doanh thu trên 20.000 tỉ đồng. Đây là một bước nhảy vọt về doanh thu so với năm 2014.
Sang năm 2016, Thế giới di động tiếp tục đặt ra kế hoạch doanh thu "khủng" với doanh thu trên 34.000 tỉ đồng, hàng trăm cửa hàng mới nữa sẽ tiếp tục được mở ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, Thế giới di động đang ở trên đỉnh.
Nhưng hãy khoan! Trong cái mừng luôn chứa cái lo, và Thế giới di động sẽ có nhiều thứ phải lo ngại.
Cũng trong cuốn sách về chiến lược Đại dương Xanh, W.Chan Kim đã đưa ra một khái niệm mang tên "Strategy Canvas". Một cách dễ hiểu, đây là dạng đồ thị đơn giản nhằm so sánh chúng ta với đối thủ, từ đó thấy được những lợi thế và yếu điểm của DN này so với DN cùng ngành, từ đó đưa ra những chiến lược thay đổi phù hợp.
Không khó để nhìn những lợi thế giúp Thế giới di động hấp dẫn khách hàng. Đó là hệ thống cửa hàng có mặt bằng lớn, vị trí đẹp dày đặc ở khắp mọi nơi, bán hàng chính hãng và chất lượng dịch vụ hậu mãi tuyệt vời.
Nhìn vào đồ thị dưới đây, có thể thấy TGDĐ (đường cam) đang có ưu thế vượt trội so với đối thủ. Trừ trong đặc điểm về tính linh hoạt, hệ thống chuỗi tất nhiên không thể so với những cửa hàng bán hàng di động nhỏ.
Tuy nhiên, đó là TGDĐ của thời điểm hiện tại, và có thể là 1 - 2 năm nữa. Giống như một quả táo chín quá sẽ bắt đầu hỏng ruột, trong trung và dài hạn, những lợi điểm này sẽ sớm biến mất, thậm chí trở thành những "vết xước" chết người cho mô hình này.
Đầu tiên, cửa hàng nhiều, lớn, vị trí đẹp sẽ dần đánh mất ưu thế. Khi các thương hiệu Nokia, HTC, Sony Ericsson, Black Berry lần lượt biến mất, chủng loại điện thoại không còn đa dạng như trước, việc cài đặt không khó khăn thì một cửa hàng lớn như TGDĐ hiện tại sẽ trở nên thừa thãi. Vai trò tư vấn cũng không quá quan trọng nữa.
Thay vào đó, những cửa hàng di động nhỏ lẻ sẽ có lợi hơn khi có thể dễ dàng đi sâu vào khu dân cư.
Thứ hai đó là sự xuất hiện của các cửa hàng chính hãng từ phía nhà sản xuất như Apple, Samsung. Việc các nhà sản xuất trực tiếp bán sản phẩm của mình thông qua bán hàng online thay vì đưa hàng tới đại lý đang trở thành xu thế rất mạnh trên thế giới. Và đương nhiên nhà sản xuất dễ dàng đánh bật các đại lý khi hoàn toàn đáp ứng tốt việc bảo hành chính hãng, các dịch vụ tư vấn sản phẩm cũng như độ tin cậy.
Giả sử Apple có mặt tại Việt Nam và tự bán iPhone của mình, chắc chắn các Apple Store sẽ là lựa chọn số 1 khi khách hàng mua hàng chính hãng.
Còn về dịch vụ khuyến mãi? Các hãng viễn thông như Viettel, Mobifone hoàn toàn có thể làm tốt hơn khi đưa ra các gói hỗ trợ trực tiếp với các thuê bao của mình. Đây là lợi thế mà chỉ riêng bán lẻ di động sẽ không thể có được.
Đồ thị dưới đây sẽ cho thấy những lợi thế của TGDĐ sẽ mất dần. Vẫn là đường màu cam, nhưng lần này nó đã hoàn toàn "chìm nghỉm" so với các mô hình khác. Đại dương Xanh đã thay đổi.
Một số ưu thế trước đây nay bỗng trở thành yếu điểm chết người. Chẳng hạn, mặt bằng lớn, vị trí đẹp giờ trở nên thừa thãi, trở thành gánh nặng chi phí và khiến lợi nhuận biên của ngành vốn đã mỏng, nay càng mỏng hơn.
Cựu CEO Best Buy, Robert Alan Willett, người đã đổ triệu đô vào TGDĐ và đang nằm trong Hội đồng quản trị của công ty này chắc chắn là người thấm nhuần bài học này nhất khi chính mô hình Best Buy cũng đã nhận "trái đắng" tương tự.
Những năm gần đây, TGDĐ đã bắt đầu đổ tiền đầu tư rất mạnh vào các mô hình mới khác như bán lẻ điện máy hay bán lẻ thực phẩm, mục tiêu trở thành Bách hóa Xanh. Thế nhưng, cả hai thị trường trên đều không dễ ăn khi tồn tại rất nhiều những đối thủ khó nhằn.
Bán lẻ di động là một mô hình kém bền vững. Vì vậy không lạ khi các cổ đông thúc giục FPT bán đi FPT Shop ngay tại thời điểm đang thành công lớn. Trong mắt các cổ đông, mô hình này chỉ phù hợp để đầu tư, xây dựng thật nhanh và chắc chắn là tới "game" thoái vốn.
Và Thế giới di động cũng không ngoại lệ.
Đọc tiếp »

Tỉ lệ tín dụng tung ra - tỉ lệ tăng GDP = Lạm phát

Tỉ lệ tín dụng tung ra - tỉ lệ tăng GDP = Lạm phát.
Ví dụ, GDP tăng 3%, thì nếu tỉ lệ tín dụng tung ra cũng 3%, thì Lạm phát = 0.
Trong khi đó, GDP VN chắc chắn GIẢM, theo tôi năm ngoái giảm 7%, do:
Tăng tín dụng 12% - tỉ lệ tăng/ giảm GDP = 19% (Lạm phát)
Nếu GDP giảm 7%, đang khi năm nay dự định tăng tín dụng 18%, thì Lạm phát sẽ 25%.
Nếu Lạm phát ít hơn, thì CÀNG TỆ HẠI, do đó là vì sản xuất bị đình trệ (stagnation), tựa như người bị lên máu, khi xuống lại thì đó là khi điện tâm đồ chạy ngang:
Đọc tiếp »