Hiển thị các bài đăng có nhãn marketer. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn marketer. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2017

Hiểu đúng về Digital Marketing???

Digital là 1 nền tảng platform đầy tiềm năng trong tương lai có thể mang lại hiệu quả bất ngờ nếu chúng ta hiểu đúng và làm đúng. Chính vì thế, Digital Marketing là một trong những “key word” hấp dẫn nhất đối với các marketers trẻ vào thời điểm hiện tại.
Nhà nhà, các bạn sinh viên ai cũng muốn theo ngành Digital Marketing, doanh chủ thì ai cũng muốn làm digital marketing cho doanh nghiệp của mình. Nhưng liệu Digital Marketing có phải đũa thần, chúng ta phải nên hiểu rõ lợi ích Digital Marketing mang lại để tránh quá THẦN THÁNH HÓA về Digital Marketing nhé.
-----
👉 1. Why use Digital?
💞 Ở những năm trước, điều mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ở đây là: Hiện nay, có quá nhiều người làm marketing hay quảng cáo đã không còn đứng “trong cùng một mối quan hệ” với khách hàng của mình nữa. Tự cho rằng mình đã biết và hiểu người tiêu dùng quá rõ ràng, họ chỉ ngày càng thao thao bất tuyệt về sản phẩm của mình chứ không còn biết lắng nghe nữa.
💞 Và người tiêu dùng hiện nay cũng đã “dời nhà” sang mảnh đất màu mỡ khác – mảnh đất digital, nơi mà sau khi sử dụng sản phẩm/dịch vụ xong, họ có thể đưa ra những ý kiến đóng góp hay các cuộc hội thoại về sản phẩm/dịch vụ đó với những người khác một cách nhanh chóng và dễ dàng, điều mà Marketing Truyền Thống không có.
💞 Rất nhiều khảo sát đã thống kê được rằng các campaign trên digital có thể mang đến hiệu quả lớn nhất từ nguồn ngân sách hợp lí nhất. Những con số về brand awareness, ad recall, message association, brand favourability và purchase intent đều cho thấy sự gia tăng đáng kể khi brand thực hiện campaign trên digital platform.
💞 Tracking và targeting chính xác là điều mà Marketing Truyền Thống không có được và cũng là sức mạnh của Digital Marketing. Chúng ta hoàn toàn biết rõ hành vi khách hàng vào website chúng ta như thế nào, insight của họ ra sao qua fanpage insight và nhiều công cụ social listening.
-----
👉 2. Xu hướng truy cập Internet đang mở rộng ở nhiều độ tuổi khiến Digital Marketing trở nên hấp dẫn với SMEs hơn. Ngày nay, dễ dàng bắt gặp các U50 - U60 cũng biết truy cập youtube, facebook mỗi ngày, lên zalo nhắn tin.
-----
👉 3. Digital thực sự có bao nhiêu kênh truyền thông?
(Digital Marketing Channel)
Chúng ta hay nghe nói có 7 công cụ, 24 công cụ, 10 website,... thực ra Digital Marketing tóm gọi lại chỉ có 3 Kênh Truyền Thông Chính Yếu, còn facebook, google, email,... chỉ là nền tảng, công cụ, tool, trang web mà thôi...
 Kênh thứ 1: Paid Media.
Paid Media là tất cả các trang web, các công cụ, các Social Network, các trang báo điện tử, forum,... hỗ trợ chúng ta quảng cáo thông điệp về sản phẩm, hình ảnh về thương hiệu đến với khách hàng thông các hình thức như sponsor, banner, tin vip, bài Pr, Social Ads,... và phải trả phí để quảng cáo hiển thị đến với khách hàng trên các trang web thì đó đều gọi chung là Paid Media.
1 số hình thức phổ biến như Social Ads (FB Ads, Instagram), Search Ads (Google Adword), Banner Display (Google Display Network, Book Banner Báo Điện Tử,...), Mạng Adnetwork (tính tiền theo click) như Eclick của FPT, ...
Lợi thế lớn nhất của Paid Media là sức lan tỏa truyền đi thông điệp rất cao, vì mẫu quảng cáo chúng ta tiếp cận được nhiều khách hàng. Tưởng tượng nếu 1 bài Pr về công ty chúng ta nằm ở trang chủ báo Vnexpress thì sẽ như thế nào. Hay như 1 mẫu FB Ads hấp dẫn hiển thị trên tường nhà của gần 10.000 khách hàng mục tiêu và nội dung hấp dẫn đúng insight!!!
Bất lợi lớn nhất của Paid Media chính là chi phí cao 😂 và phải theo dõi kiểm soát chặt khi chạy quảng cáo.
Để chạy Paid Media hiệu quả thì thật ra không có công thức chuẩn, mà chỉ là 1 vòng tròn: Testing A/B, rồi Learn - Thử Nghiệm cái tốt nhất, sau 1 thời gian, điều chỉnh nội dung, lại quay lại Testting A/B tiếp tục, luôn luôn tìm cách tối ưu chi phí và gia tăng mức độ tiếp cận khách hàng, nhất là Social Ads.
Và nếu chúng ta có 1 CONTENT đủ mạnh để viral dẽ dàng lan tỏa bốc cháy như xăng, thì Paid Media ví như 1 ngọn lửa sẽ giúp bùng lên thông điệp lan tỏa một cách mạnh mẽ đến cộng đồng mạng, và từ đó chính khách hàng sẽ kế nghiệp việc viral cho chúng ta.
Đôi khi 1 content rất hay, nhưng đợi khách hàng tự chủ động chia sẻ thì mức độ lan tỏa ban đầu sẽ rất là chậm!
Viral Marketing mà thiếu "Paid Media" kích nổ thì làm vô cùng khó.
 Kênh thứ 2: Owned Media
Là những công cụ, kênh thuộc sở hữu trực tiếp của chúng ta, do chúng ta quyết định về nội dung, đôi khi quyết định được cả về hình thức.
Owned Media là đích đến cuối cùng của khách hàng từ các kênh trên Paid Media tiếp cận khách hàng, hay từ các hoạt động Viral, họ vào Owned Media để hiểu rõ hơn xem chúng ta là ai, từ đó đi đến quyết định mua hàng.
Vậy Owned Media quan trọng? Yes, nó cực kỳ quan trọng.
1 công ty đầu tư Owned Media cẩu thả thì dù làm Viral Marketing xuất sắc, llan tỏa hàng triệu người về Branding, thì vẫn không có doanh thu cao khi website nội dung nghèo nàn, fanpage không cập nhật hoạt động để tăng sự tín nhiệm.
Owned Media thường là Website DN, Fanpage của Brand, Kênh Youtube Channel của Nhãn Hàng,...
Ghi nhớ là việc cập nhật content đều đặn cho Owned Media đóng 1 vai trò quan trọng trong hoạt động Digital Marketing đi đến thành công.
 Kênh thứ 3: Earned Media
Là những kênh của chính khách hàng sở hữu, đó là FB cá nhân của khách hàng, đó là nick diễn đàn của khách hàng, nick zalo của họ... và họ dùng những tài khoản cá nhân đó chia sẻ thông tin về thương hiệu của chúng ta, lan tỏa cho chúng ta thì những điều đó gọi là Earned Media, và nếu diễn ra diện rộng thì Viral Marketing đang diễn ra.
Và Earned Media luôn là con dao hai lưỡi, do đó luôn có hoạt động theo dõi Social Listening để coi cộng đồng mạng nói gì, chia sẻ gì về Brand của chúng ta, nếu có ai đó seeding, chia sẻ Brand chúng ta ở 1 diễn đàn nào đó, thi phải theo dõi thật chặt chẽ để tránh đối thủ lợi dụng tung tin xấu khiến chúng ta bị khủng hoảng truyền thông ngầm. Và khi phát hiện thì mọi việc đã quá xa.
Hiện nay, Videos, đặc biệt "Live Streaming" trên Facebook là 1 xu thế rất hot dễ dàng khiến khách hàng sử dụng Earned Media cho chúng ta nhiều nhất.
-----
👉 4. Đo lường hoạt động Digital Marketing?
Bên cạnh vấn đề làm thế nào để tối ưu hóa các hoạt động trên digital, việc phân tích và đo lường hiệu quả cũng đòi hòi rất nhiều công sức từ reporting đến nghiên cứu để optimization thông qua các tool phổ biến như google analytics (nghiên cứu về traffic), google search console (nghiên cứu về từ khóa và thứ hạng web), Google Trend để tìm hiểu xu hướng Online (search tăng giảm với các keywrod), cùng 1 số phần mềm thống kê có trả phí và các công cụ social listening có trả phí (phí khá cao) để tìm hiểu về Brand Talking on Social từ khách hàng và cộng đồng mạng.
Đây là lợi thế lớn nhất mà Marketing Truyền Thông không bao giờ có được.
-----
👉 5. Nếu ngành nghề của bạn khách hàng không hề lên Online, hoặc khách hàng tìm nhà cung cấp dịch vụ không hề thông qua các nền tảng online (website, diễn đàn, search, Facebook,...) thì bạn làm Digital Marketing cũng bằng thừa. Do đó, không thần thánh hóa Digital Marketing.
Hãy kết hợp hài hòa cả Digital và Marketing truyền thống mới là khôn khoan nhất.
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016

8 yếu tố cho thấy bạn là một marketer thời đại mới

Điều gì làm nên một marketer hiện đại? Điều gì chúng ta sẽ tìm kiếm ở CMO trong tương lai? Infographic sau đây nói lên những kĩ năng và kinh nghiệm làm nên một marketer thời đại mới.



Người suy nghĩ linh hoạt

Lori Marino, Senior Manager, Digital & Social Media của Raytheon đã nói rằng:

“Một marketer phải tạo ra nhiều mối quan hệ bởi vì đó chính là thứ cần thiết quan trọng nhất.”

Những marketer hiện đại tự tạo ra vận may cho chính họ. Trong quá khứ, họ dựa vào phân tích số liệu để hiểu được làm thế nào để ứng biến với kế hoạch. Còn ở hiện tại, họ sử dụng những phân tích tức thì để kịp thời đưa những câu hỏi khác nhau về dữ liệu, và sử dụng những câu trả lời đó để phát triển chiến lược của họ.

Là bộ mặt của công ty

Họ chính là người đại diện của công ty trước cộng đồng. Họ xây dựng và nuôi dưỡng mối quan hệ với những người có thể giải quyết những khó khăn mà công ty gặp phải. Đó không chỉ là việc nói chuyện với các influencers – người có tầm ảnh hưởng, mà họ phải trở thành một trong số đó. Khả năng truyền đi thông điệp của họ là một phần của tiêu chí tuyển dụng.

Tập trung vào kết quả

Cũng là nhìn vào kết quả, nhưng họ nhìn xa hơn là những chỉ số KPI, lượt xem hay doanh số đơn thuần. Họ luôn hướng đến mục tiêu đầu tiên, kết quả cuối cùng và tầm nhìn xa hơn. Họ nắm bắt những hoạt động và đo lường những mức độ thành công theo nhiều cách khác nhau. Họ tìm kiếm kết quả nhưng cũng không quá cứng nhắc mọi hành động vào những chỉ số đo lường.



Đôi tai rộng mở

Rachel Miller, Customer Engagement Manager của Nimble nói rằng:

“Chìa khóa để xây dựng một cộng đồng là hiểu được rằng: điều bạn nghe quan trọng hơn điều bạn nói.”

Họ biết lắng nghe con người và những con số. Trong khi, những lời ồn ào bàn tán về thương hiệu có thể gây ra khủng hoảng, họ sử dụng nhiều phương thức để điều chỉnh những lời ồn ào đó và lấy lại những thông điệp rõ ràng và đúng đắn, tích cực – về thương hiệu, sản phẩm và ngành hàng nói chung. Với kiến thức này, họ có thể tạo ra thông điệp theo một hướng hiệu quả và có ý nghĩa.

Tầm nhìn có định hướng

Họ đang trò chuyện cùng với con người chứ không phải là nói cho người khác nghe thôi. Họ truyền đạt chứ không chỉ là quảng cáo. Thông điệp mà họ muốn truyền tải không chỉ tập trung xoay quanh những đặc tính của sản phẩm mà còn là ý nghĩa đằng sau chúng hay xa hơn nữa. Đó là điều mà các thương hiệu hiện đại đang muốn truyền tải: ý nghĩa thương hiệu.

Luôn quan tâm đến con người

Họ kết nối và xây dựng mối quan hệ với người tiêu dùng. Họ gây dựng để phát triển tinh thần tốt đẹp giữa cộng đồng và cái họ cần. Đó không chỉ là để tăng mức độ nhận biết (awareness), mà còn để phát triển sự am tường và thấu hiểu sâu sắc về nhu cầu của người tiêu dùng để mang lại cho họ những giá trị đích thực.

Không ngại lăn xả

Họ biết ứng biến và tháo vát. Sự tự tin linh hoạt là tài sản mạnh nhất của họ. Họ nhanh chóng tạo ra trải nghiệm mới, học hỏi và thích nghi với chúng. Họ luôn làm mới mình trước công chúng và không ngừng trải nghiệm.

David Smooke, Director of Social Media của Smart Recruiters nói rằng:

“Marketing là một câu chuyện cá nhân. Hãy có cho riêng mình câu chuyện có thể kể trong 1 giờ, câu chuyện có thể nằm trong 1 câu, và câu chuyện chỉ gói gọn trong 1 từ - sau đó hãy kể với thế giới ngoài kia – thị phần sẽ đến với bạn.”

Biến những ý tưởng thành hiện thực

Họ thấu hiểu sâu sắc về công nghệ - biết cách như thế nào để các công cụ khác nhau làm việc hiệu quả với nhau và họ cũng có thể cho ra những ý tưởng sáng tạo thú vị.
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2016

Những điều mà các Digital Marketer hiểu sai về Marketing

Vấn đề lớn nhất của ngành marketing trong thời đại công nghệ bùng nổ hiện nay đó là: Có quá nhiều digital marketer không biết điều cơ bản của marketing là gì?
Các marketer trong lĩnh vực digital – với vai trò thực chất là marketer nhiều hơn là digital - thực sự nên học cách hoài nghi nhiều hơn để nhận ra mình đang chìm đắm trong ảo ảnh vô nghĩa của những thuật ngữ sáo rỗng như thế nào.
Đầu tiên là cụm từ “inbound marketing”, một khái niệm ra đời giữa những năm 2000 bởi HubSpot – một công ty bán phần mềm inbound marketing (dĩ nhiên) và đã bị một người cựu nhân viên, ông Dan Lyons công khai chỉ trích trong một quyển sách của ông phát hành ngày 05/04.
Ông Lyons đã cáo buộc một cách ngụ ý rằng, thành công của HubSpot dường như đến từ việc quảng bá cho thuật ngữ “inbound marketing” hơn là sản phẩm thực sự của họ: “Những vị trí đầu tiên mà HubSpot thuê là Trưởng phòng Sales và Trưởng phòng Marketing. Ông Halligan và ông Dharmesh đã đảm nhận 2 vai trò này dù lúc đó công ty hoàn toàn không có sản phẩm nào để bán và thậm chí còn chưa có bất kỳ một sự mường tượng nào về sản phẩm mà họ muốn tạo ra. HubSpot đã bắt đầu như một công ty bán sản phẩm nhưng lại đang đi tìm sản phẩm để bán”.
Thứ hai, đó là cụm từ “content marketing” đã được tuyên truyền rộng rãi vào cùng thời gian trên bởi ông Joe Pulizzi. Ông là người tạo ra Content Marketing Institute – dĩ nhiên, lại lần nữa, là công ty bán các khóa học huấn luyện Content Marketing, cũng như bán tấm vé bước chân vào thế giới hội thảo Content Marketing toàn cầu. Vậy “content marketing” là gì? Định nghĩa của Wikipedia là một ví dụ điển hình của việc “nói lên một điều gì đó nhưng thực sự là không nói lên điều gì cả!”:
Content marketing là bất cứ một hoạt động marketing nào liên quan đến việc tạo và chia sẻ các nội dung truyền thông hoặc xuất bản nhằm mục đích thu hút và giữ chân người tiêu dùng.
Việc sử dụng những thuật ngữ vô nghĩa một cách tràn lan đã tạo nên một thế hệ marketer non trẻ bì bõm lội vào nghề mà không biết bất cứ một khái niệm cơ bản và thực tiễn nào – những điều là nền tảng cơ bản của ngành. Kết quả là có quá nhiều “digital marketer” đang làm việc dựa trên những nền tảng sai lầm, làm ảnh hưởng đến sự chuyên nghiệp của ngành digital bằng cơn lũ spam trên Internet. Để hiểu thế giới marketing này đang sai lệch theo hướng nào, trước tiên, hãy so sánh cách mà phòng marketing điều hành công việc trước và sau khi có sự phổ cập đại chúng của Internet.
Google Trends.
Hãy tưởng tượng bây giờ là năm 1996. Bộ phận marketing truyền thống đang nghĩ gì? Đó là 4P, là promotion mix, là chiến lược truyền thông, là SWOT, là khái niệm 5 nguồn lực, là xây dựng thương hiệu. Tiếp theo đó, vào năm 2006, các đội ngũ digital marketing đang nghĩ gì? Đó là thứ tự xếp hạng trên Google, lượng traffic vào websites, lượng like trên Facebook, lượng người theo dõi trên Twitter, tỉ trọng từ khóa, tạo ra các back-links.
“Bộ phận marketing truyền thống” đã sử dụng chiến lược phát triển chuyên nghiệp, bài bản trong nhiều thập kỷ qua. Trong khi các “phòng ban marketing online” tự gọi mình là những marketer nhưng thậm chí không hiểu biết bằng một sinh viên marketing 18 tuổi. Sự khác biệt giữa 2 phòng ban marketing đã đang tạo nên 2 sự khác biệt rất lớn.
Các online marketer nên bắt đầu thực hiện những hoạt động marketing và xây dựng thương hiệuthực sự.
Tuy nhiên, trong những năm về sau, marketing online cũng đã có sự tiến bộ nhất định. Google đã ngăn chặn thành công những hành động gian lận để thay đổi vị thứ trên bảng xếp hạng. Các thương hiệu bắt đầu phải trả tiền cho lượng reach trên Facebook. Phần lớn đường link dẫn đến các trang web khởi nghiệp được hiển thị dưới dạng tự nhiên theo sản phẩm nhờ những nỗ lực bao phủ và quảng cáo và không có đường link nào được dựng lên nhờ công tác SEO (theo nghiên cứu của ông John Doherty, người sáng lập công ty Credo, đã công khai trên trang Moz hồi tháng 3 năm 2016).

“Content marketing” hoàn toàn không có gì mới

Trong khi tất cả những thay đổi này đang xảy ra, các online marketer nên ngưng các hoạt động “ngụy tạo marketing” và bắt đầu thực hiện những hoạt động marketing và xây dựng thương hiệu thực sự.
Và các “inbound marketer” đã sai, khi tuyên bố rằng: Những chiến lược “outbound” như quảng cáo, PR đã “chết” mà không nêu ra bất cứ bằng chứng nào (ông Martin Kihn của Gartner cũng đã phủ nhận tuyên bố này). Vì vậy, họ (những người bán phần mềm inbound) vẫn cần khác biệt hóa bản thân bằng cách nào đó để đáp ứng phù hợp nhu cầu mà vẫn có thể trả lương cho nhân viên của mình, giữ chân khác hàng và người dùng phần mềm.
Thế giới digital marketing thay vì cố gắng dùng những thuật ngữ sáo rỗng mới thì hãy hiện thực hóa chúng để chứng minh nỗ lực của họ có tạo nên sự mới mẻ hay khác biệt. “Content marketing” là thuật ngữ xuất hiện sau khi các online marketer bắt đầu hô hào câu khẩu hiệu “ngu ngốc nhất” trong lịch sử marketing, đó là:
“Content is King!”
Bất cứ ai đang tin chắc vào điều này cần thức tỉnh và nhận ra thực trạng rằng “Content is King” không mang lại bất cứ ý nghĩa nào cho ngành marketing. Bởi vì sao?
Nhấp chuột vào ảnh để xem kích thước lớn.
Nội dung, dĩ nhiên, luôn là phần quan trọng nhất. Như các quảng cáo bia được chiếu trên TV vào mùa cao điểm. Hay một video gây scandal được đăng lên Facebook. Một bức hình tự sướng của một người bị bệnh cuồng bản thân đăng lên Instagram. Hay như chính bài viết này, cũng là nội dung, và có thể nó sẽ bị cộng đồng marketing phớt lờ, bởi những marketer thèm-khát-được-chú-ý sẽ luôn tuyên truyền về sự thay đổi của một số mô thức truyền thống nhằm mục đích tạo dựng tên tuổi cho mình, ngay cả khi những “thay đổi” đó hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu quảng cáo bia không hấp dẫn, nếu viral video không thu hút được người xem, nếu bức ảnh tự sướng không đạt đủ lượng “likes”, thì tương tự như nhau, tất cả đều chẳng có ý nghĩa gì. Nội dung lúc nào mà chẳng quan trọng.
Marketer luôn cố gắng tạo ra một thông điệp và truyền tải nó thông qua một nội dung, nội dung đó đến với người dùng thông qua một kênh nào đó; tất cả đều nhằm mục đích xây dựng thương hiệu, tăng nhu cầu và khiến người dùng mua sản phẩm. Điều đó vẫn đúng cho đến ngày nay – điều khác biệt duy nhất là chúng có thêm nhiều kênh khác nhau dể truyền tải nội dung, như Internet, các thiết bị di động, và những kênh này mang lại nhiều định dạng nội dung vô cùng phong phú.
Vào thập niên 50, một marketer có thể tạo ra một thông điệp về một sản phẩm rồi đưa lên quảng cáo in ấn và đăng trên các tạp chí. Ngày nay, một marketer có thể đưa thông điệp đó lên một video và đăng trên YouTube.
Sáng tạo không thể sản xuất hàng loạt.
Công cụ và kênh đã thay đổi, nhưng quy trình thì vẫn y nguyên. Các “content marketer” ngày nay đang làm những điều y hệt như các marketer thập niên 50. Đặc biệt, trong các cộng đồng SEO, nhiều agency chuyên cung cấp các phần mềm marketing đang nhận ra tác động tiêu cực của những thuật ngữ sáo rỗng và họ bắt đầu xây dựng lại thương hiệu của mình từ “SEO” sang “marketing”.
Cuối cùng, tất cả các hoạt động marketing đều là “content marketing” bởi vì tất cả các hoạt động marketing đều sử dụng “content”. Phần lớn những người sử dụng từ “content” lại không chắc chắn điều mình đang làm chính xác là gì. Một quảng cáo, họ cũng gọi đấy là content. Một ấn phẩm marketing để hỗ trợ bán hàng trong một chiến dịch marketing trực tiếp, họ cũng gọi là content. Một video, cũng không khác gì. Định nghĩa sáng tạo một cách chính xác sẽ giúp bạn tìm cách thức tốt nhất để thực hiện công việc của mình.
Nếu marketer không thay đổi tư duy của mình, họ sẽ tiếp tục xem “content” như một cái máy và spam Internet với một đống những thứ tào lao, ngày càng rẻ tiền mà họ tự gọi là “content”. Nhưng “content” không phải một thứ hàng hóa. Sáng tạo không thể sản xuất hàng loạt được. Như Greg Satell đã viết trong bài review trên tờ Harvard Business:
Chúng tôi không bao giờ gọi bất cứ thứ gì là một “content” tốt. Không có bất cứ ai sau khi xem phim bộ phim mình yêu thích sẽ thốt lên “Wow! Thật là một nội dung tuyệt vời!”. Không ai lắng nghe những “nội dung” trên đường đi làm vào buổi sáng. Bạn nghĩ có ai gọi đại văn hào Ernest Hemingway là một người “sáng tạo nội dung”? Nếu có ai từng như vậy thì tôi sẽ xin anh ta tự đấm vào mũi mình.
Giả sử, điều bạn đang thực sự làm là tạo ra một quảng cáo, thì đừng gọi nó là “content” – hãy tự hào vì bạn đang thực hiện một quảng cáo thương mại cho khách hàng của bạn và làm cho nó tuyệt vời đủ để mọi người nhớ về nó trong vài năm sau đó.

Bí ẩn “inbound marketing”

Tổng quát quy trình marketing mà tôi miêu tả ở trên đều thuộc 1 trong 5 lĩnh vực promotion mix sau: marketing trực tiếp (direct marketing), quảng cáo (advertising), bán hàng cá nhân (personal selling), khuyến mãi (sales promotion) và xuất bản (publicity) (promotion mix cũng sử dụng 4P của marketing mix bao gồm: Product, Price, Place và Promotion).
Tôi đã giải thích 4P, promotion mix và các bước tiếp cận chiến lược vĩ mô trong một bài luận trước đây, giờ tôi tóm tắt ngắn gọn lại như sau:
  • Marketing trực tiếp là việc gửi các ấn phẩm bán hàng đến danh sách những người cụ thể, nhằm đạt được những phản hồi trực tiếp, ngay lập tức. Bao gồm gửi thư trực tiếp, gửi email, và phần lớn các quảng cáo trên Internet, di động và các mạng xã hội.
    (Đúng vậy! Phần lớn các quảng cáo trên online và di động, thực sự là marketing trực tiếp chứ không phải quảng cáo!)
  • Advertising - Quảng cáo sử dụng những kênh đại chúng để tăng mức độ nhận biết và gắn kết giữa thương hiệu với khản giả đại chúng.
  • Personal selling - Bán hàng cá nhân sử dụng những nhân viên bán hàng thường là lựa chọn của những công ty B2B hoặc B2C cao cấp, các sản phẩm này thường có vòng đời sản phẩm dài.
  • Sales promotion - Khuyến mãi là những hoạt động ngắn hạn nhằm khuyến khích người dùng mua hoặc bán một sản phẩm hay dịch vụ, thông qua giảm giá hoặc các coupon.
  • Kích hoạt - là cách thức gia tăng lượng nhìn thấy hoặc mức độ nhận biết thông qua tương tác trực tiếp trên các kênh media tự có hoặc trả tiền (owned hoặc earned media).
Ở đây, tôi không liệt kê “inbound marketing” hay “content marketing” hoặc “social media marketing”, bởi vì chúng không phải một phần của promotion mix, và thực sự chúng không nên tồn tại ngay từ đầu. Bất cứ ví dụ nào về 3 khái niệm trên đều chỉ đơn giản là một cách gọi khác của những khái niệm đã tồn tại trước giờ trong promotion mix:
  • Clip “The Dollar Shave Club” không phải một “content marketing” – nó là quảng cáo (được đăng tải trên YouTube).
  • Sự kiện “Red Bull’s space jump” không phải “content marketing” – nó là một hình thức kích hoạt thương hiệu (được đăng tải thông qua mang xã hội và tin tức).
  • Câu Tweet nổi tiếng của Oreo mùa Super Bowl không phải “social media marketing” – nó là một dạng kích hoạt thương hiệu trên digital (được đăng tải thông qua Twitter)
Những ví dụ trên, dù sao, phần lớn là của những thương hiệu có khách hàng đại chúng. Rất hiếm thấy có start-up công nghệ cao nào đang làm ra bất cứ hoạt động nào tương tự vì bản chất của ngành này không cho phép

Ưu thế của direct marketing

Một trong những tờ báo marketing online lớn nhất là Marketing Land, thực sự đang tập trung phần lớn vào direct marketing dù họ sử dụng nhiều cái tên khác nhau để gọi:
Tôi có một lời khuyên dành cho ban biên tập: họ nên thêm vào đó các chuyên mục quảng cáo, kích hoạt, bán hàng để thu hút thêm nhiều marketer và nhân viên kinh doanh nữa, những người có sự quan tâm đến hình thức marketing mix.
Các start-up công nghệ rất thích direct marketing. Tại sao? Vì sự sống sót của họ phụ thuộc vào những báo cáo phân tích, những chỉ số phát triển, và direct marketing là một phương thức rất dễ đo lường. Gần đây, Google đã ra mắt công cụ Analytics 360 Suite - đơn thuần là một công cụ phục vụ cho nhu cầu trên.
Nếu kênh media được sử dụng là email, Google AdWords hay Facebook thì tất cả các platform này sẽ được phân tích dữ liệu tỉ mỉ, kết quả sẽ được đo lường bởi lượng “likes”, clicks, shares cũng như số lượng mua, lượng chuyển đổi hay tải về. Các bài kiểm tra A/B và kiểm tra đa biến có thể ép bất cứ số liệu nào để ra được kết quả tỷ lệ chuyển đổi theo hướng tăng.
Hơn nữa, các platforms marketing tự động chỉ đơn thuần là cách đo lường và tổng hợp các hoạt động direct marketing – chứ không thể đo lường được tất cả các hoạt động marketing khác, vì chúng không thể đo lường được các hoạt động quảng cáo và kích hoạt. Không có bất cứ một hệ thống tự động hay một thuật toán nào có thể đo lường sự kinh ngạc của chúng ta.
Để trở thành những marketer am hiểu hơn, những start-up công nghệ này cần đọc... quyển “Marketing 101”.
Dẫu vậy, các start-up công nghệ không có đủ kiên nhẫn để tạo dựng nên các thương hiệu mạnh bằng quảng cáo và kích hoạt. Các marketer đòi hỏi những phản hồi trực tiếp dưới dạng những lượt sale, lượng lead, lượng download và cài đặt mà họ có thể theo dõi được.
Tỷ lệ ROI của các chiến dịch quảng cáo và kích hoạt thực sự rất khó để đo lường và thường không mang lại lợi nhuận ngay lập tức. Các công ty công nghệ làm gia tăng nhu cầu đo lường direct marketing bằng công nghệ và áp dụng chúng cho tất cả các hoạt động marketing và PR; nhưng sự thật là rất khó để xác định được tỷ lệ ROI của các chiến dịch xây dựng thương hiệu.
Một ví dụ là khi mọi người muốn đo lường direct marketing, ví dụ như “Chúng ta có được bao nhiêu khách hàng?” từ các hoạt động kích hoạt như bao phủ tin tức, viết bài. Số lượng khách hàng đến từ các bài viết này thường thấp. Direct marketing và kích hoạt là 2 cách khác nhau với 2 mục đích khác nhau cho những mục tiêu khác nhau. Mục tiêu của những bài viết như vậy có thể là để gia tăng mức độ nhận biết cho thương hiệu (một mục tiêu không thể đo lường). Gán mục tiêu sai cho những chức năng sai là lỗi xảy ra khi các online marketer không hiểu được nền tảng của marketing truyền thống.
Mặt tích cực của direct marketing là chúng rất dễ để theo dõi. Mặt tiêu cực là chúng khá nhàm chán và được phát đi một cách tràn lan. Mọi người có thể đồng ý xem các quảng cáo offline; nhưng họ ghét những quảng cáo online. Tại sao? Vì phần lớn những quảng cáo online đều là direct marketing – và mọi người rất ghét direct marketing, dù đó là email spam trong hộp thư, email rác trong hộp thư rác, hay những quảng cáo target đến họ trên social...
Thêm vào đó, online advertising (tôi đã viết một bài trên TechCrunch và tranh luận về điều này trong rất nhiều hội thảo) – là một mảnh đất màu mỡ của nạn gian lận, tham nhũng và xâm hại quyền riêng tư.

Các tech marketer nên làm gì?

Lời khuyên của tôi là: Hãy quay trở về với những gì cơ bản nhất của marketing. Trong hơn 1 thập kỷ qua, rất nhiều digital marketer trở thành tech marketer, vì vậy họ không được đào tạo về marketing truyền thống nữa. Đó là lý do tại sao họ tập trung vào các thuật toán, họ tranh luận để tìm ra cách tự động hóa tốt nhất và sáng chế ra những khái niệm mới; họ thôi không nghĩ về việc làm thế nào để xây dựng thương hiệu với những kỹ thuật đã được phát triển từ thế kỷ trước.
Để trở thành những marketer giỏi hơn, họ cần bỏ qua tất cả những bài viết về “inbound marketing” hay “content marketing” và đọc một quyển “marketing 101” (tôi đề xuất quyển Principles of marketing, tác giả Philip T. Kotler và Gary Armstrong).
Hãy nghiên cứu về direct marketing, chiến lược truyền thông và chiến lược kích hoạt trong promotion mix, sau đó áp dụng những nguyên tắc truyền thống này vào các kênh online / offline mà bạn chọn – bất kể là TV, Facebook, Google AdWords hay bất cứ thứ gì khác.
Đừng chia rẽ đội ngũ marketing truyền thống và online. Càng nhiều hoạt động trên online thì marketing truyền thống và digital càng trở thành đơn giản, “chỉ-là-marketing”. Các direct marketer cần phải học cách làm thế nào để thành công trên cả kênh online và offline. Điều tương tự cũng đúng cho các nhà quảng cáo, nhà xuất bản và người bán hàng. Ví dụ, một nhà xuất bản giỏi sẽ am hiểu việc làm thế nào để đưa sản phẩm của họ lên TV cũng như Facebook.
Hãy tìm những phương thức thay thế direct marketing. Kỹ thuật phân tích và thuật toán của mọi người thường tốt, nhưng lại không sáng tạo. Tuy nhiên, không phải lúc nào direct marketing cũng kém sáng tạo. Ví dụ như quảng cáo “The Dollar Shave Club”, rõ ràng là một hoạt động kích hoạt nhưng có hiệu quả cực kỳ tốt.
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ mà direct marketing dường như đã trở nên quá cổ lỗ, và chúng ta quên cách phải hành xử như một brand marketer. Nhưng hãy nhớ rằng: Làm thế nào mà Apple trở thành một thương hiệu đáng giá lớn nhất trên thế giới? Chính là nhờ những quảng cáo TV như “1984” và những print-ads như “Think different”.
Hãy luôn luôn nghi ngờ. Marketer nên là những người khó tính nhất khi đưa sản phẩm vào thị trường, nhưng thường hay dễ dãi với chính bản thân họ. Hãy tự hỏi bản thân: “Khách hàng này / công ty này có thể dành ra bao nhiêu tiền cho ý tưởng này?” Bất cứ khi nào marketer than phiền rằng “mọi thứ đã thay đổi” hoặc tuyên bố khái niệm truyền thống nào đó đã “chết” hay ca tụng những thuật ngữ vô nghĩa là “tương lai của marketing”; hãy hỏi họ bằng chứng. Hãy hỏi họ đưa ra các nguồn thông tin làm dẫn chứng và giải thích lý do cho những phát ngôn của họ.
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016

Trưởng phòng Marketing

Giám đốc Tiếp thị (Chief Marketing Officer - CMO) đang là một trong những chức vụ thường được nhắc tới trong vài năm gần đây. Trước tiềm năng marketing to lớn đến từ phương tiện truyền thông mới và các kênh ph 
Dù đã được nhìn nhận đúng đắn, nhưng chúng ta không khỏi bất ngờ khi biết rằng nhiệm kỳ trung bình của một CMO chỉ là 23 tháng trong khi một Giám đốc Tài chính có thể tại vị từ 4-5 năm.
Hơn nữa, nhiều công ty không có một đại diện tiếp thị cao cấp trong ban giám đốc (BGĐ). Điều này đặt ra câu hỏi – doanh nghiệp có thật sự cần một CMO hay vai trò của CMO chỉ là sự thổi phồng?  Bài viết này nhằm tìm lời đáp cho câu hỏi trên đồng thời cung cấp cho doanh nghiệp một số chỉ dẫn hữu ích cho định hướng chiến lược.
Tại sao các công ty cần có CMO?
Trong bối cảnh thương mại phát triển, tiếp thị cũng từng bước trở thành khuôn khổ chiến lược cho toàn doanh nghiệp. Với hiểu biết thấu đáo về người tiêu dùng, CMO nhất thiết phải trở thành đại diện không thể thiếu trong BGĐ. Ngoài ra, sở hữu 1 CMO chiến lược, doanh nghiệp còn có được nhiều lợi ích sau:
Điều chỉnh marketing phù hợp với chiến lược kinh doanh:
Công nghệ hiện đại, đối tác thế lực, và uy quyền lớn của khách hàng khiến môi trường cạnh tranh trở nên gay gắt và vai trò tiếp thị nhờ đó cũng được củng cố và mang tính chiến lược hơn. Tiếp thị không còn hạn chế trong mô hình 4P. Với hiểu biết rộng về thị trường và khách hàng, chuyên gia marketing phải là nguồn lực cốt cán trong xây dựng chiến lược. Mọi vấn đề chiến lược của doanh nghiệp – từ lựa chọn thị trường cạnh tranh, phân khúc khách hàng, cách thức thâm nhập thị trường đến việc chọn đối tác đều đòi hỏi nhiều thông tin từ bộ phận tiếp thị. Để có thể chuyển tải trọn vẹn mọi khía cạnh bằng ngôn ngữ kinh doanh, vai trò đại diện của CMO là không thể thiếu trong ban giám đốc.
Ví dụ điển hình nhất là sản phẩm iPhone thuộc hãng Apple. Apple có thể dễ dàng ngủ quên trên thành công rực rỡ của iPod và iMac, nhưng chính kỹ năng tiếp thị nhạy bén của BGĐ đã giúp họ nhận ra hãng cần liên tục khơi gợi sự hứng thú nơi khách hàng. Xa hơn nữa, hãng đã lập chiến lược phát triển bằng cách thỏa mãn mọi nhu cầu chưa được đáp ứng của người dùng. Tiếp thị đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược của Apple.
Cầu nối giữa BGĐ và khách hàng
Như Peter Drucker cho biết, hai chức năng duy nhất của một tổ chức bất kỳ nào là đổi mới và marketing. Mặc cho công ty có sáng tạo như thế nào, các nhân viên tận tụy đến đâu, và ban quản trị tài giỏi ra sao, thành công cũng chỉ ở trong mơ nếu họ không biết cách gắn kết với khách hàng. Ban quản trị nên thường xuyên đánh giá quyết định chiến lược của mình dựa trên các phản hồi từ khách hàng –những gì khách hàng trân trọng và vai trò của khách hàng khi giúp doanh nghiệp tạo dựng giá trị.
CMO đóng vai trò chủ chốt giúp BGĐ và CEO cập nhật thường xuyên về thị hiếu mới nhất và cách các bộ phận trong công ty đang cố gắng thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng ra sao. Các công ty như Levi Strauss, Sony, Toyota, Nike và Singapore Airlines nằm trong số ít các doanh nghiệp tiên phong có khả năng cảm nhận được những dao động trong thị hiếu khách hàng. Vì vậy, marketing đóng một vai trò trung tâm trong việc dẫn dắt chiến lược doanh nghiệp bằng cách thường xuyên cập nhật ban lãnh đạo và CEO về khách hàng và thị trường.
Lấy khách hàng làm trọng tâm
Với vô vàn lựa chọn, khách hàng khó có thể trung thành với 1 thương hiệu duy nhất và ưu thế cạnh tranh của sản phẩm cũng yếu đi. Doanh nghiệp thành công luôn lấy khách hàng làm trọng tâm. Mọi hoạt động của họ đều hướng về khách hàng. Để trở thành một doanh nghiệp “vì khách hàng” đòi hỏi nỗ lực tổng thể của mọi phòng ban và mỗi nhân viên phải thật sự thấu hiểu khách hàng.
Những điều này liên quan mật thiết đến văn hóa, tổ chức và chính sách doanh nghiệp. CMO có thể có thuyết phục BGĐ và CEO thực thi các biện pháp cần thiết để trở thành doanh nghiệp “vì khách hàng”. Banyan Tree Hotel & Resorts là một ví dụ điển hình cho triết lý kinh doanh luôn hướng về khách hàng. Người sáng lập Banyan đã gắn kết marketing với mọi bộ phận trong tổ chức, qua đó tạo nên một tập đoàn nghỉ dưỡng đẳng cấp thế giới luôn nỗ lực làm hài lòng khách hàng.
Đến đây, chúng ta có thể thấy vai trò chiến lược của CMO trong BGĐ là điều hoàn toàn hiển nhiên, tuy chưa được nhiều doanh nghiệp xem trọng.
Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về các thử thách có thể khiến vị trí của CMO trong ban lãnh đạo bị lung lay.
Những thách thức một CMO phải đối mặt
Những thách thức CMO phải đối mặt là cũng chính là những bài toán hóc búa mà marketing hiện đại phải tìm lời giải. Từ lâu, có nhiều tranh cãi cho rằng một trong những điều đe dọa uy tín, vị trí và thậm chí vai trò của marketing trong doanh nghiệp nằm ở chỗ không thể định lượng được thành công và xác minh hiệu quả đầu tư cho các hoạt động marketing.
Ba trở ngại chính trong vấn đề này là: (1) Gắn các hoạt động marketing với hiệu quả lâu dài, (2) Tách các hoạt động marketing riêng lẻ khỏi các hoạt động khác, và (3) Sử dụng phương pháp thuần túy về tài chính để đánh giá các khoảng đầu tư marketing. Như thế, các CMO không có cơ hội tham gia quyết định chiến lược của công ty. Hai thách thức khó khăn bao gồm:
Đo lường kết quả marketing:
Về căn bản, tiếp thị có một số điểm khác với những bộ phận như tài chính hay hành chánh. Vìmarketing làm việc với con người, thái độ và hành vi ngẫu nhiên của họ, nên không thể dễ dự đoán được như một chu trình máy móc. Vậy nên, có thể sẽ có khoảng thời gian chênh lệch đáng kể giữa hoạt động marketing và các kết quả dự đoán. Hơn nữa, việc đo lường các kết quả này sẽ cần vận dụng các 2 chỉ số tài chính và phi tài chính. Trước những thách thức tiềm ẩn này, CMO sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi thuyết phục BGĐ về vai trò của marketing trong việc phân bổ nguồn lực và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng của công ty.
Giải thích vai trò trọng tâm của marketing trong một doanh nghiệp:
Nhiều công ty vẫn đánh đồng marketing với quảng cáo và bán hàng. Nhưng từ lâu marketing đã phát triển từ một bộ phận chiến thuật lên vai trò hoạch định chiến lược ở tầm vĩ mô. Với hiểu biết của về khách hàng và các nhân tố liên quan khác, marketing đóng vai trò trọng tâm trong việc phối hợp nội lực. Tuy nhiên, để khẳng định vai trò trung tâm như thế trong bất kì công ty nào, chuyên gia marketing nên hiểu được những khía cạnh hoạt động khác nhau của công ty, các chiến lược cũng như nguồn lực và giới hạn của từng mặt. Chuyên gia marketing thường hay quá tập trung vào công việc của chính mình mà đánh mất vị trí trọng tâm này. Các CMO đối mặt với rất nhiều nhiệm vụ khó khăn trong đào tạo và thuyết phục ban lãnh đạo cấp cao về các khả năng và vị trí chính đáng của họ.
CMO và ban giám đốc
Xét đến sự ác cảm khá sâu sắc đối với phòng marketing trong bất kỳ công ty nào và đặc biệt là trong đội ngũ quản lý hàng đầu, các CMO phải theo kịp với thời đại và tận dụng tối ưu mọi nguồn lực trong cách xử lý của mình để giải quyết những phàn nàn cơ bản chống lại marketing.
Tận dụng các phương tiện truyền thông mới:
Ngay cả khi Internet và các kênh truyền thông mới tiếp tục thử thách phương thức kinh doanh cơ bản, chúng cũng mang lại nhiều lợi thế to lớn vượt cả ngoài tầm với của một doanh nghiệp. Khi phần đông doanh nghiệp đổ xô tìm chỗ đứng online, họ cũng nên nghĩ đến việc cấu trúc trang web theo những cách hợp lý để có thể đo lường hiệu quả hoạt động marketing. Có các phần mềm cho phép công ty theo dõi từng diễn biến của khách hàng, mức độ quan tâm – lượng thời gian một khách hàng ở trên một trang web, tỷ lệ click xem quảng cáo trực tuyến, cách thiết kế giao diện tối ưu để đo lường các thay đổi trong thái độ và hành vi, v.v.
CMO có thể tận dụng những công cụ này để khởi đầu quá trình định lượng kết quả marketing. Những thử nghiệm ban đầu này cũng cho phép doanh nghiệp từng bước thiết lập hệ chỉ số cho riêng mình.Bước khởi đầu thiết yếu này không chỉ giúp tạo uy tín cho marketing, mà còn cho phép các chuyên gia marketing tạo ấn tượng tốt với BGĐ và CEO.
Đào tạo nội bộ:
Nhằm nâng tầm marketing lên đến cấp quản lý, các chuyên gia marketing cần nắm rõ đường lối chiến lược của doanh nghiệp ở mọi bộ phận và nâng cao khả năng diễn đạt vấn đề bằng ngôn ngữ kinh doanh. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua hình thức đào tạo chức năng của các bộ phận trong công ty. Hình thức huấn luyện này giúp chuyên gia marketing hiểu được các mục tiêu trong chiến lược công ty và cũng cho phép họ thúc đẩy hiệu quả các nguồn lực nội bộ tập thể hướng tới bảo đảm lợi nhuận và kết quả tối ưu.
Trong tương lai
Bài viết này đã đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản về cách thức các doanh nghiệp nên vận hành thế nào trong tương lai. Vai trò của marketing trong công ty chỉ trở nên quan trọng hơn khi việc quản lý quan hệ khách hàng và cộng hưởng giá trị trở thành trụ cột của bất kỳ chiến lược kinh doanh nào.
Trong tương lai, các CMO sẽ nổi lên như cầu nối chiến lược giữa BGĐ, đội ngũ quản lý cấp cao, CEO và khách hàng. Doanh nghiệp nên trao cho CMO vị trí và quyền lực cần thiết. Hơn nữa, doanh nghiệp cần phải xây dựng một cơ cấu tổ chức, trong đó, CMO có thể dẫn dắt tầm nhìn và sứ mệnh của công ty bằng cách tích hợp mọi bộ phận trong công ty. Không bao lâu nữa sự thành công của công ty sẽ phụ thuộc vào sức mạnh marketing và CMO.
Nguồn: Brand Aid & The Blake Project

Lược dịch: Thanh Nhàn – DNA Branding
Đọc tiếp »

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016

ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA MARKETING VÀ SALE ?

Khái niệm Marketing xuất hiện đầu những năm 1900. Nó được hiểu là một khâu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều công ty sử dụng Marketing để giúp khâu sản xuất “tống khứ” đi sản phẩm. Họ quan niệm Marketing chính là việc bán hàng. Đây là một cách hiểu rất sai lệch nhưng lại đang khá phổ biến trong phạm vi kinh doanh cũng như trong suy nghĩ của nhiều người. Thực tế, Marketing và bán hàng hầu như đối lập với nhau. Bán hàng chỉ tập trung vào việc bán càng nhiều sản phẩm càng tốt nhưng Marketing được hiểu chính xác là bộ phận tạo ra khách hàng cho công ty. Nhưng bản chất của Marketing và việc bán hàng hiểu một cách đầy đủ là thế nào? Làm sao để phân biệt Marketing với bán hàng ?

Quan điểm kinh doanh tập trung vào bán hàng
Đây là quan điểm cho rằng người tiêu dùng bảo thủ và do đó có sức ỳ hay thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vậy để thành công, doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi, phải tạo ra các cửa hàng hiện đại, phải huấn luyện được đội ngũ nhân viên bán hàng biết lôi kéo và thuyết phục khách hàng nhanh chóng vượt qua trở ngại về tâm lý bằng bất cứ cách thức nào. Đẩy được nhiều hàng và thu được nhiều tiền từ phía khách hàng là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng và hiệu quả công tác
Quan điểm kinh doanh theo cách thức marketing
Quan điểm này khẳng định chìa khóa để đạt được những mục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp phải xác định đúng những nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu (khách hàng) từ đó tìm mọi cách đảm bảo sự thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó bằng những phương thức có ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh. Có nghĩa là Marketing hướng các nhà quản trị doanh nghiệp vào việc trả lời hai câu hỏi :
(1) liệu thị trường có cần hết-mua hết số sản phẩm doanh nghiệp tạo ra?
(2) Liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có đủ tiền để mua hay không?
Kinh doanh theo cách thức Marketing tức là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường- nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh.
So sánh quan điểm bán hàng và quan điểm Marketing
Có thể so sánh Marketing với việc bán hàng dựa trên 4 tiêu chí sau: điểm xuất phát, trung tâm chú ý, các biện pháp thực hiện, và mục tiêu đạt tới của mỗi hình thức.
– Một là điểm xuất phát: Trong khi xuất phát điểm của việc bán hàng là tại nhà máy thì Marketing lại là thị trường mục tiêu- lấy nhu cầu và mong muốn của khách hàng làm xuất phát điểm của hoạt động kinh doanh.
– Hai là trung tâm chú ý: trọng tâm chú ý của việc bán hàng là sản xuất ra sản phẩm theo chủ ý của nhà kinh doanh. Trái ngược lại, Marketing tập trung hoàn toàn vào việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Sự tương phản giữa bán hàng và Marketing được nêu rõ trong phát biểu của Lester Wunderman, một nhà Marketing nổi tiếng: “Bản tụng ca của cuộc Cách mạng Công nghiệp là bản tụng ca của nhà sản xuất, họ nói rằng “Đây là cái do tôi làm ra, sao bạn không vui lòng mua nó đi?” Còn trong thời đại thông tin hiện nay thì lại là người mua hàng đang hỏi: “Đây là cái tôi muốn, sao bạn không vui lòng sản xuất?” ”
– Ba là các biện pháp thực hiện: hoạt động Marketing đòi hỏi sử dụng tổng hợp và phối hợp các biện pháp (marketing hỗn hợp) chứ không chỉ các biện pháp liên quan đến khâu bán hàng. Các biện pháp marketing hỗn hợp bao gồm marketing đối ngoại-marketing với khách hàng và marketing đối nội. Marketing khách hàng tức là doanh nghiệp phải tìm các cách thức để tìm ra nhu cầu của khách hàng và biến nhu cầu đó thành việc mua hàng hóa của doanh nghiệp. Marketing đối nội tức là doanh nghiệp phải làm tốt các khâu như tuyển dụng, huấn luyện, quán triệt và động viên tới mọi bộ phận, mọi nhân viên của doanh nghiệp vì một mục tiêu hoạt động chung là làm thỏa mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn. Để tạo sự thành công cho doanh nghiệp, marketing đối nội phải đi trước marketing đối ngoại.
– Bốn là mục tiêu lợi nhuận: Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa marketing với việc bán hàng. Mục tiêu của bán hàng là tăng lợi nhuận nhờ tăng lượng bán sản phẩm. Tuy nhiên, mục tiêu của marketing mang tầm vĩ mô, hướng tăng lợi nhuận bằng cách doanh nghiệp phải làm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Marketing là phải tạo ra giá trị bằng cách cung cấp những giaai pháp tốt hơn, giúp giảm bớt thời gian và sức lực cho việc tìm mua hàng của khách. Nhờ đó đưa đến cho xã hội một tiêu chuẩn sống cao hơn.
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Mô tả công việc trưởng phòng marketing

Tài Liệu Ứng Dụng Quản Trị Công Ty Thương Mại
                    Quy Trình và Biểu Mẫu

1          Quản trị marketing

2          Quản trị mua hàng

3.         Quản trị kho

4.         Quản trị bán hàng

5.         Quản trị nhân sự

6.         Quản trị tài chính kế toán


MÔ TẢ CÔNG VIỆC TRƯỞNG PHÒNG MARKETING
Bộ phậnPhòng marketing
Chức danhTP Marketing
Mã công việcMAR-TP
Cán bộ quản lý trực tiếpGiám đốc Marketing


1.  Nhiệm vụ:
–            Tổ chức thực hiện theo các chương trình kế hoạch marketing, kế hoạch quảng cáo, chương trình khuyến mãi. Theo dõi việc thực hiện và báo cáo kết quả.
–            Phát hiện các cơ hội marketing bằng cách nghiên cứu và phân tích các dữ liệu bán hàng và thị trường.
–            Thực hiện các chiến dịch thông tin và quảng cáo.
–            Bảo vệ giá trị của tổ chức bằng cách giữ bí mật các thông tin marketing.
–            Cập nhật kiến thức ngành nghề bằng cách tham dự các buổi hội thảo đào tạo; xem các ấn phẩm chuyên ngành; thiết lập mạng lưới quan hệ cá nhân, gia nhập vào tổ chức chuyên nghiệp của ngành nghề.
–            Đạt được các nhiệm vụ của tổ chức và nhiệm vụ marketing bằng cách hoàn thành các mục tiêu liên quan khi có yêu cầu.
–            Mở rộng kênh phân phối sản phẩm.
–            Đạt được các mục tiêu kinh doanh và Marketing bằng cách đóng góp các thông tin và các đề xuất về hoạt động kinh doanh và Marketing cho các tổng kết và kế hoạch chiến lược.
–            Đạt được các mục tiêu tài chính của hoạt động kinh doanh và tiếp thị bằng cách dự đoán nhu cầu, theo dõi ngân sách hàng năm; lập kế hoạch chi tiêu; phân tích các biến động; khởi xướng các hành động khắc phục.
–            Dự đoán và triển khai hạn ngạch doanh thu hàng năm.Phân tích xu hướng và kết quả; thiết lập chiến lược định giá; đề xuất giá bán, cạnh tranh.
–            Lập kế hoạch, triển khai, thực hiện và đánh giá việc quảng cáo, mua hàng, và các chương trình khuyến mãi; triển khai các kế hoạch hành động bán hàng theo từng chủng loại sản phẩm.
–            Duy trì mối quan hệ với các khách hàng lớn bằng cách thường xuyên có cuộc thăm viếng khách hàng; khám phá các nhu cầu đặc thù, dự đoán các cơ hội mới.

2.      Quyền hạn:
–            Yêu cầu các bộ phận thực hiện đúng theo các kế hoạch, chương trình marketing được duyệt.
–            Đề xuất khen thưởng, kỷ luật, năng lương, nghỉ phép đối với nhân viên thuộc quyền.
–            Cho nghỉ việc riêng đối với nhân viên thuộc quyền.
–            Chủ động sắp xếp lịch của nhân viên.

3.      Báo cáo và uỷ quyền:
–            Báo cáo công việc cho Giám đốc marketing;
–            Uỷ quyền cho một trong các nhân viên trong phòng.

4.      Tiêu chuẩn công việc:
–            Kỹ Năng Trình Bày.
–            Thiếp lập và giữ gìn các mối quan hệ tốt.
–            Có khả năng phân tích thị trường.
–            Sức khỏe tốt.
–            Tốt nghiệp Đại học các ngành có liên quan Sales, Marketing, QTKD…
–            Kinh nghiệm 4 năm marketing, ít nnất 1 năm ở vị trí tương đương.
–            Tiếng Anh lưu loát.
–            Thông thạo vi tính Văn phòng, đặc biệt Acess.
–            Ý Tưởng Marketing, Định Vị,
–            Khả năng Lập Kế Hoạch Kinh Doanh, Phân Tích Cạnh Tranh.

----

Mô tả công việc của từng bộ phận/ thành viên trong phòng marketing [29/03/2011]

Ứng dụng mô hình phòng marketing chuẩn quốc tế có thể xác định công việc của từng bộ phận, Chuyên môn nghiệp vụ thuộc về kỹ năng và kiến thức người đứng đầu bộ phận.
Trên cơ sở Mô hình chuẩn quốc tế, Mô tả công việc của từng người quản lý bộ phận cơ bản như sau:
1/ Trưởng phòng/ người phụ trách thương hiệu:

- Xây dựng và thực hiện chiến lược marketing, quản lý sản phẩm và truyền thông
- Chịu trách nhiệm mọi hoạt động của phòng marketing, phân công nhiệm vụ và kiểm soát.
- Lập và thực hiện chương trình truyền thông như: khuyến mại, quảng cáo, tài trợ...
- Lên kế hoạch quản lý và phân bổ kinh phí cho các hoạt động marketing
- Phối hợp thực hiện các chương trình PR, event với đối tác thuê ngoài.
- Thiết lập và thực hiện hệ thống thông tin doanh nghiệp, phân tích dữ liệu thiết lập báo cáo trình ban giám đốc, tham gia và tham mưu cho ban giám đốc về chiến lược dài hạn, ….
- Nghiên cứu thị trường, và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới
- Thiết lập ngân sách marketing, trình Giám đốc duyệt. Chịu trách nhiệm trong phạm vi ngân sách được giao.
- Xây dựng kế hoạch, giải pháp và tổ chức thực hiện các Mục tiêu – Chính sách của Công ty đối với hoạt động kinh doanh và tiếp thị.
- Giúp GĐ công ty việc điều hành và quản lý mọi hoạt động tiếp thị trên cơ sở chiến lược marketing dài hạn một cách hiệu qua; bảo đảm các nguồn lực cho kinh doanh.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình nghiên cứu & phát triển, huấn luyện – đào tạo và ứng dụng KHKT trong hoạt động tiếp thị
- Kết hợp với Giám Đốc Kinh Doanh xác định các yêu cầu của Khách hàng và đáp ứng các yêu cầu này ;
- Đồng thời đảm bảo toàn bộ tổ chức nhận thức các yêu cầu mới của Khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của Công ty, đồng thời hỗ trợ bán hàng
- Xây dựng và tổ chức thực hiện phương án chiến lược các kế hoạch trung hạn, ngắn hạn phát triển doanh nghiệp thuộc lãnh vực chuyên môn phụ trách.

2/ Nhân viên phụ trách quảng cáo.

Gồm các nhiệm vụ cơ bản:
-  Lập bản kế hoạch truyền thông chi tiết dựa trên kế hoạch marketing và kế hoạch truyền thông  tổng quát của trưởng phòng,
-  Liên hệ và booking phương tiện truyền thông,
-  Phối hợp với bộ phận thiết kế để thiết kế thông điệp và hình ảnh truyền thông,
-  Viết thông điệp truyền thông (bài PR),
- Phát triển các kênh bán và hoạt động bán, đánh giá và đề xuất cải tiến dịch vụ/ sản phẩm,
- Cập nhật, tổng hợp thông tin thị trường để hỗ trợ cho việc đánh giá, xây dựng các chiến lược Marketing ngắn, trung, dài hạn,
- Triển khai các chương trình quảng cáo, tiếp thị và hoạt động quảng bá của Công ty,
- Theo dõi và cập nhật thông tin quảng bá qua các kênh truyền thông,
- Quản lý mối quan hệ khách hàng được phân công,
- Các nhiệm vụ khác theo chức năng và yêu cầu trưởng phòng marketing.
Đọc tiếp »